Ngày đăng : 03/04/2014

PGS.TS Ngô Đức Thọ, nhà nghiên cứu đa năng


Trong thế hệ những nhà khoa học xã hội đương đại có tên tuổi, nếu như Nguyễn Tài Cẩn, Hà Văn Tấn, Nguyễn Huệ Chi là những người xây nền móng cho các ngành ngôn ngữ học, khảo cổ học và văn học trung đại, thì Ngô Đức Thọ là người đi “be bờ đắp đập” cho nhiều chuyên ngành khoa học chuyên sâu khác nhau, từ văn tự học, văn bản học, thư tịch học, cho đến sử liệu học, bi ký học, phiên dịch học…

Ở mỗi một mảng chuyên ngành ấy, Ngô Đức Thọ luôn để lại những công trình quan trọng. Bài viết này sẽ lần lượt điểm những cống hiến của ông ở những bình diện nêu trên.

Về văn tự học

Ở Việt Nam, hàng loạt các văn tự cổ từng tồn tại đã và đang chết đi, như chữ Chăm cổ, chữ Thái cổ, chữ Quốc ngữ cổ, chữ Nôm Tày, chữ Nôm Dao, chữ Nôm Việt,… và dĩ nhiên là chữ Hán cổ. Trong bối cảnh đó, công trình “Nghiên cứu chữ Huý trên các văn bản Hán Nôm” của Ngô Đức Thọ (1995) đã đánh dấu sự ra đời của chuyên ngành văn tự học chữ Hán. Như lời tựa giới thiệu của giáo sư Hà Văn Tấn: “công trình này đã đặt nền móng cho môn tỵ húy học ở Việt Nam”.

Cuốn sách hình thành trên cơ sở luận án tiến sĩ của ông, và là thành quả lao động trong hơn mười năm, trên cơ sở khảo sát hàng vạn văn khắc và thư tịch cổ. Cuốn chuyên luận được in bằng hai thứ tiếng (Việt, Pháp) ngay lập tức đã trở thành giáo khoa thư và sách tham khảo gối đầu giường cho nhiều học giả ở các ngành văn tự học, văn bản học, thư tịch học, sử liệu học… Giới Hán học quốc tế biết đến văn tự học ở Việt Nam chủ yếu vẫn là qua cuốn sách trên. Tiếc rằng, sau gần 20 năm, đây vẫn là cuốn chuyên luận duy nhất về chuyên ngành này. Không biết sau sẽ như thế nào, nhưng nếu như Ngô Đức Thọ là người mở đầu và cũng là người chấm hết cho chuyên ngành văn tự học chữ Hán ở Việt Nam, thì đó là một điều vô cùng đáng tiếc và day dứt!

Về văn bản học

Văn bản học cùng với khảo cổ học là hai ngành khoa học quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu lịch sử và văn hóa truyền thống. Các chuyên gia về khảo cổ học hiện nay có thể lên đến vài chục, nhưng chuyên gia về văn bản học chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong đó, Ngô Đức Thọ được coi là cánh chim đầu đàn của chuyên ngành khoa học này với công trình “Cơ sở văn bản học Hán Nôm” (viết chung với Trịnh Khắc Mạnh, NXB Khoa học xã hội, 2007, 408 trang). Đây cũng là cuốn sách duy nhất hiện nay tại Việt Nam trình bày về hệ thống lý thuyết cũng như các thao tác, quy trình nghiên cứu văn bản học, sử liệu học. Cuốn sách đã trở thành giáo trình giảng dạy tại các bậc đại học, thạc sĩ và tiến sĩ tại một số cơ quan như Đại học Quốc gia, Học viện Khoa học Xã hội.

Bên cạnh chuyên luận “Cơ sở văn bản học Hán Nôm”, ở mảng này, Ngô Đức Thọ còn công bố một số nghiên cứu khoa học quan trọng khác, ví dụ như “Đi tìm nguồn gốc và năm xuất hiện của văn bản Binh thư yếu lược” (công bố năm 1986). Trong nghiên cứu này, ông xác định rằng văn bản “Binh thư yếu lược” là một văn bản giả tạo (ngụy thư) do người sau sáng tác (sớm nhất là vào năm 1869), chứ không phải là một văn bản nguyên gốc của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từ thời Trần. Kết luận về văn bản này là dấu chấm hết cho một nghi án lịch sử.

Có thế nói, mỗi phát hiện về văn bản học, cũng giống như phát hiện về khảo cổ học, sẽ là một cuộc lật đổ khoa học. Toàn bộ các thành quả nghiên cứu của các ngành khác (như sử học, văn học, triết học, tôn giáo, quân sự học, văn hóa học, địa lý học lịch sử...) sẽ chỉ là những giả thuyết mong manh nếu chưa có giám định của khoa văn bản học. Ngô Đức Thọ với những nghiên cứu của ông về văn bản học đã và đang tạo nên những bước đi vững chãi cho khoa học xã hội ở Việt Nam.

Về từ điển học

Là người nghiên cứu về chữ viết cổ truyền (văn tự học), Ngô Đức Thọ đương nhiên có lợi thế rất lớn trong nghiên cứu và biên soạn từ điển. Ông cùng một số đồng nghiệp đã dành công sức cả đời để biên soạn Từ điển Hán Việt trên cơ sở ngữ liệu Hán văn Việt Nam từ Lý - Trần cho đến Nguyễn. Bộ từ điển này gồm 12.500 mục từ (chữ) đơn, 16.500 mục từ ghép, 215.000 cứ liệu có xuất xứ trong các thư tịch, bi ký Hán văn Việt Nam; lựa chọn được 85.000 dẫn liệu đưa vào các mục từ, tổng số trang lên đến 6.000 trang A4.

Đây hẳn sẽ là công trình từ điển có ý nghĩa nhất ở lĩnh vực này, bởi như ta biết các từ điển Hán Việt trước nay chủ yếu sử dụng các ngữ liệu của Hán văn Trung Quốc, phải đến công trình này, ngữ liệu của các văn bản văn học, lịch sử của Việt Nam mới được đưa vào thống kê, phân tích. Tiếc rằng, cuốn sách này cho đến nay chưa được cơ quan nào tài trợ xuất bản.

Trước đó, Ngô Đức Thọ cũng đã có một số công trình từ điển nổi tiếng khác.

Cuốn thứ nhất là “Từ điển di tích văn hoá Việt Nam” do ông chủ biên, được xuất bản lần đầu vào những năm 1990. Đây là cuốn từ điển đầu tiên tổng hợp 150 nguồn tư liệu cổ, với 20.000 phiếu lược thuật, 1.202 đơn vị di tích, bao gồm: 605 đền, miếu; 132 đình; 454 chùa (am, viện, tháp); 11 Đạo quán thuộc nhiều địa phương nước ta. Từ điển này ngay từ khi ra đời đã trở thành một “cơn sốt” trên thị trường sách học thuật - các cơ quan nghiên cứu, các nhà nghiên cứu, những người yêu văn hóa di tích truyền thống đều tìm đọc.

Cuốn thứ hai là “Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919)” cũng do ông chủ biên và viết bài khảo cứu (NXB Văn học, tái bản 2006, 875 trang). Đây thực chất là một cuốn từ điển về gần 3.000 vị trạng nguyên, tiến sĩ đã trúng tuyển trong các kỳ thi đại khoa (thi Hội) chính thức do triều đình tổ chức từ thời Lý cho đến thời Nguyễn. Như ta biết, phần lớn các nhà khoa bảng đó đều là các quan lại cao cấp, các nhà văn hóa, nhà thơ, nhà văn, nhà y dược học, nhà tư tưởng- chính trị,… Đúng như lời giới thiệu khảo cứu của Ngô Đức Thọ, trước cuốn sách này, ở Việt Nam “chưa có một bộ sách nào đáp ứng được yêu cầu tra cứu tổng hợp về các nhà trí thức” trong lịch sử 1.000 năm của Việt Nam. Vì thế, sau khi ra đời, “Các nhà khoa bảng Việt Nam” đã được tái bản nhiều lần, và được đánh giá là một sách công cụ đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ ai muốn nghiên cứu về lịch sử nhân vật, lịch sử khoa cử...

Về sử liệu học, địa lý học lịch sử

Khoa sử liệu học luôn gắn chặt hữu cơ với văn tự học và văn bản học. Sử liệu có khả tín hay không đều phải qua thao tác giám định văn bản (thật / giả), hiệu điểm văn tự (đính ngoa, cú đậu). Ngô Đức Thọ chính là người có những đóng góp quan trọng trong ngành sử liệu học ở Việt Nam. Ông là dịch giả của cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (bản in Nội các quan bản mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697) - NXB Khoa học xã hội, Tập 1 do Hà Văn Tấn hiệu đính, 2009, 436 trang). Ông đồng thời là người khảo cứu văn bản học và biên dịch một số tác phẩm sử học quan trọng khác như Hoàng Việt hưng long chí, Văn bia Văn miếu Quốc tử giám – Thăng Long, Ngô Đức Kế: cuộc đời và sự nghiệp,…

Quan trọng hơn cả, cùng với Philippe Papin, ông chủ biên việc nghiên cứu văn bản, biên dịch, chú thích bộ sách Đồng Khánh địa dư chí (hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với Viện Viễn đông Bác Cổ Pháp, NXB Thế giới, ba tập, 2003, 5.000 trang). Đây là một công trình đồ sộ về sử liệu học và địa lý học lịch sử. Hàng nghìn trang tư liệu và bản đồ cổ đã được công bố chú thích, góp phần đẩy mạnh việc nghiên cứu chủ quyền biển đảo cũng như lãnh thổ, địa giới của Việt Nam trong lịch sử.

Biên dịch

Ngoài những chuyên ngành trên, Ngô Đức Thọ còn được biết đến với tư cách là một trong những dịch giả có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Các tác phẩm dịch thuật của ông trải trên nhiều lĩnh vực từ văn học, sử học (đã nêu), cho đến Phật học, thiên Chúa giáo, các tài liệu nghiên cứu khoa học.

Về văn học, ông là dịch giả của cuốn Mộng Bá vương (Việt Nam khai quốc trí truyện) của tác giả Bảng Trung Hầu Nguyễn Khoa Chiêm (NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1990), là đồng dịch giả của cuốn Hậu Thuỷ hử (ba tập, tác giả Thi Nại Am, La Quán Trung, NXB Văn học, 1994), Hoàng Việt Long hưng chí – bộ tiểu thuyết lịch sử của Ngô Giáp Đậu (NXB Văn học, 1993, 445 trang).

Về Phật giáo, ông là đồng dịch giả của bộ Thiền uyển tập anh (Anh tú Vườn Thiền) - tác phẩm văn học-lịch sử Phật giáo sớm nhất (NXB Văn học, 1993, 249 trang), Lục tổ đàn kinh của Huệ Năng đại sư (NXB Văn học, 1992, 206 trang); Lời giáo huấn của Phật Đà của Walpola Rahula (NXB Tôn giáo, 1999).

Ông còn là dịch giả/đồng dịch giả của một số sách nghiên cứu như Thái Đình Lan và tác phẩm Hải Nam tạp trứ của giáo sư Trần Ích Nguyên ở Đài Loan (NXB Lao động - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2008, 291 trang); Nghiên cứu về khuyên phát tâm bồ đề của Pháp sư Diễn Bồi (NXB Hà Nội, 1994, 297 trang).

Ngoài những tác phẩm thuộc các lĩnh vực trên, Ngô Đức Thọ còn tham gia biên soạn nhiều bộ sách khác. Số liệu đến nay chưa thống kê thực đầy đủ, nhưng với những gì chúng tôi biết, số lượng trang in lên đến khoảng 10.000 trang. Những đóng góp đồ sộ của ông đối với nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam hẳn là công sức bền bỉ trong suốt cuộc đời lao động khoa học nhọc nhằn và lặng lẽ. Những sai sót ở trong đó không phải là không có, nhưng về cơ bản ông xuất hiện như một “người khổng lồ đa năng”, người trấn giữ trọng trách, người đặt nền ở các lĩnh vực văn tự học, văn bản học, từ điển học, sử liệu học... Chỉ nguyên điều đó thôi đã khiến ông có một vị trí trang trọng ở bất kỳ một hội đồng khoa học nào.

“Giải thưởng văn hóa Phan Chu Trinh” về dịch thuật 2014 là một sự công nhận và động viên rất lớn đối với cá nhân ông. Nhưng xét cho cùng, sự nghiệp trước tác chính là giải thưởng lớn nhất mà ông đã tự dành cho mình!

PGS. TS Ngô Đức Thọ sinh năm 1938, quê Hà Tĩnh, có ông nội là chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế (1878-1929). Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội, năm 1967; bảo vệ Tiến sỹ Ngữ văn học - chuyên ngành Hán Nôm năm 1995. Năm1996, ông được phong Phó Giáo sư Ngữ văn học. Từ năm 1982 cho đến năm 2001, tức một năm trước khi nghỉ hưu, ông là Trưởng ban Văn học của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Với 40 sách nghiên cứu (chung và riêng), 156 bài viết, và 30 tác phẩm dịch đã được công bố, PGS. TS Ngô Đức Thọ là một trong những nhà nghiên cứu có số lượng tác phẩm đồ sộ nhất về tư liệu và sử liệu có liên quan đến lịch sử - văn hóa Việt Nam.


Trần Trọng Dương
Nguồn: Tia Sáng