Ngày đăng : 15/04/2014

Từ Phusis Heidegger đến “tồn lưu” Bùi Giáng


C`est seulement dans la mot, dans le langue, que les choses deviennment et sont. C`est pourquoi aussi le mauvais usage de la langue dans la simple bavardage, dans les slogans de la phrasésologie, nous fait perdre la relation authentique aux chose. (Chỉ trong từ, trong ngôn ngữ mà sự vật mới trở thành và hiện hữu. Cũng vì lẽ đó mà sự lạm dụng ngôn ngữ trong cuộc ba hoa thuyết thoại và trong các khẩu hiệu  ngữ cú giảng bình khiến a đánh mất đi mối tương quan chân thực với sự vật). M.Heidegger, Itroduction à la Métaphisique, tr.221.

Nếu có nàng Thiên Nhiên muốn cảm tạ người đã đem hết thiên tài bạt tụy của mình ra để phụng hiến cho nàng, trả lại cho nàng cái chân dung sơ thủy, cái bản lai diện mục, vốn đã lắm phen bị triết học kinh viện nhà trường bôi nhọ lem luốc, thì có lẽ nàng phải ngỏ lời thâm tạ Martin Heidegger, một triết gia – nghệ sĩ kỳ ảo ở thế kỷ XX. Tôi chưa đọc ông nhiều chi cho lắm. thế hệ chúng tôi phần lớn  không thể tìm được va không thể đọc nổi sách ông trong nguyên tắc Đức văn nên đành phải đọc lai rai qua các bản dịch Pháp văn như Introduction à la Métaphysique, L`Être La Temps v.v..Và chủ yếu chúng tôi phải tìm chân dung ông qua các tác phẩm, dịch phẩm của Bùi Giáng: Lễ hội tháng Ba, Lời cố quận, Đường đi tron rừng, Sương bình nguyên, Trăng châu thổ, Sương tỳ hài…và đặc biệt là cuốn Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại. Nhưng cần phải đọc nhiều? Đến với các tác phẩm thiên tài bằng cả tấm lòng và bằng suy tư chân thành, ta sẽ nhận ra nhiều dư hương mênh mông khác. Đi sâu vào một tức là đi thẳm vào mười. Nhất tức nhất thiết là vậy.

Bùi Giáng là một trong những người tiên phong đã dày công dẫn nhập triết học Heidegger vào nền văn hóa Việt Nam bằng các công trình biên khảo cũng như các dich phẩm tuyệt diệu của mình. Và chỉ duy Bùi Giáng là người có đủ năng lực thượng thừa, đủ thông tuệ để nhiếp dẫn triết học Ba-La-mật Heidegger từ cõi nguyên thủy sơ khai Hy-lạp tiếp cận với suối nguồn uyên nguyên của triết học phương Đông. Ngôn ngữ Bùi Giáng khơi dần được những vùng sương bóng mênh mông của nền triết học phương Đông vốn bị lãng quên quá lâu qua mấy ngàn năm suy tư duy lý. Ông đã dịch và diễn giải Heidegger theo một phong cách cực kỳ tài hoa bằng ngôn ngữ riêng biệt đầy sáng tạo mà tôi tin rằng, trong tương lai, bất kỳ người nào muốn tìm hiểu triêt học Heidegger đều phải lấy đó làm kim chỉ nam! Do những hãn chế về khuôn khổ bài viết, cũng như kiến thức của người viết, nên tôi chỉ xin dựa vào vài trang của Heidegger trong cuốn Introduction à la Métaphysique (Siêu hình học nhập môn) để cố gắng khơi gần được mối tương quan giữa Plusis của Heidegger và Tồn Lưu cũa Bùi Giáng theo những suy niệm riêng của mình.

Kể từ L`Être et de temps về sau, rong các tác phẩm của mình, Heidegger thường dành nhiều trang sâu thẩm đểkhôi phục lại chân cung uyên nguyên của Thiên Nhiên (plusis). Và để hé mở cho chúng ta cái gương mặt thật của nàng, ông già nước Đức tuyệt vời đó khổ công dọn dẹp hết mọi gai góc um tùm của mấy ngàn năm triết học phương Tây.

Từ buổi khai mở sơ thủy và có tính quyết định của triết học phương Tây nơi người Hy-lạp, qua đó qua việc tra vấn về hiện thể như là thếểtrong toàn thể, cuộc vấn thoại về hiện hữu như nhiên khởi đầu cuộc lịch hảnh chân chính của nó, mở đầu buổi khai đoan chân thực, thì trong giai đoạn đó hiện thể được gọi là fusis.

A l`époque du premieret décisif dé ploiement de la philosophie occidentale chez le Grecs, par lequel le questioneur sur l`e1 tant comme tel en totalite prit son v riable départ, on nomait l`é tant fusis (tr.21).

Phusis chỉ sự trì ngự của cái mở phơi, khai lộ, và cái trì cửu của tại tồn của cái trì ngự đó. Trong cuộc trì ngự kia, cuộc trì ngự kéo dài trong giữa lòng vạn hữu mở phơi, ta còn thấy bao hàm cả ý nghĩa của biến dịch và bất biến (hằng thể lưu tồn) hiểu theo nghĩa hẹp của sự trì cửu bất động.

Phusis désigne la prédominance de ce qui s`épanouit, et le demeure (Wharen) prédomine (durchwaltet) par cette prédimiance. Dans cette prédominance qui dure dans l`épanoussement se trouve inclus aussi bien le “devenir” que “l` être” au sens restreint de persistance immobile (tr.23).

Người Hy-lạp đã không khởi đầu bằng cách y cứ vào các hiện tượng tự nhiên để thể hội fusis mà trái lại chính nhờ y cứ vào nền tảng của một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Tồn Lưu mà họ thấy khai mở trước mắt cái mà họ gọi là Phusis.

Les Grecs n`ont pas commencé par appendre  les phénomenes naturels ce que c`est la fusis, mais inversement c`est sur la base d`une  expérience fondamentale  poétique et pensante (dichtend-denkend) de l`être, que s`est ouvert à eux ce qu`ils ont du nommé fusis. (tr.22)

Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.

(Thôi Hiệu – Tản Dà dịch)

Vũ trụ đã được người xưa quan chiêm trong viễn tượn mênh mông, như là sự đấu tranh và hòa điệu vinh cửu giữa hai thế lực đối kháng của hai nguyên lý âm và dương, và con người Tại thế (Dasein) đứng ra làm băng nhân cho cuộc hôn phối giữa đất và trời theo thể điệu Tai tài.

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

(Huy Cận)

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng

(Kiều – Nguyễn Du)

Đó là linh hồn của Phusis mở phơi, và tâm hồn kẻ tài hoa mở rộng để đón nhận những viễn tượng kỳ diệu của Thiên Nhiên trong bóng vàng khói biếc, trong ngọn triều lên. Tại phương Tây chính Ki-tô giáo đã đem bi kịch của linh hồn thay thế cho sự trầm tư về thiên nhiên và vũ trụ. Đến độ Albert Camus phải than thở: “Kể từ Dostoieski về sau, chúng ta luống công tìm kiếm phong cảnh thiên nhiên trong văn chương lớn của Âu châu.(2)

Khi ngôn ngữ La-tinh dịch từ Hy-lạp Phusis thành Natura thì ý nghĩa nguyên thủy của nó đãb bị đánh mất hoàn toàn. Natura trong ngôn ngữ La-tinh có nghĩa là “sinh ra”, “sự sản sinh”. Và chính trong cuộc diễn dịch ra ngôn ngữ La-tinh đó, người ta đã làm chuyển hướng nội dung nguyên thủy của từ trong tiếng Hy-lạp khiến cho sức mạnh hoán gọi chân chính mang tính triết lý của nó đã bị phá vỡ.

On utilse la traduction latine natura, ce qui signifie proprement “naissance”. Mais, par cette tradution latine, on s`est dejà détourné du contenu originaire  du mot grec fusis, l`authentique force d`appelation philosophique du mot Grec est détruite. (tr21)

Cuộc diễn dịch từ tiếng Hy-lạp  sang La-tinh tưởng chừng như vô hại đó lại là khởi đầu cho một tiến trình khép kín co ro trong vỏ óc, tiến trình tha hóa xa lạ với tố chất cấu thành nền tinh thể tinh yếu uyên nguyên trong triết học Hy-lạp.

Cette traduction du Grec n`est indifferente ni anodine, c`est au contraire la remière etape du processur de fermeture et d`anéliaction de ce qui constiue l`essence orginaire de la philosphique Grec (tr.22)

Cách diễn dịch đầy tai hại từ tiếng Hy-lạp sang La-tinh đó (không chỉ mỗi từ fusis mà con rất nhiều ừ thiết yếu khác của nền triết học Hy-lạp ban sơ), về sau này lại chi phối  Ki-tô giáo và thời Trung cổ Ki-tô giáo. Rồi triết học hiện đại phương Tây dùng các khái niệm đó để suy diễn và lãnh hội buổi ban sơ của triết học phương Tây, và cứ ngỡ rằng mình đã vượt xa tổ tiên, xa cái cội nguồn ban sơ huyền bí kia được xem như cái gì đó đã bị bỏ qua lại đàng sau từ lâu lắm!

La traduction romanie fit ensuite autorité pour la Chriatianisme et le Moyen Age chrétien. Ce commencement est considété comme que les gens d`aujourd`hui sont censes avoir dépassé et laisse depuis longtemps derrière eux. (tr.21)

Cái suối nguồn Hy-lạp uyên nguyên thăm thẳm kia đã bị sương giăng u ám không còn ai nhìn rõ chân dung, luôn ngóng vọng về cõi ban sơ phương Đông để tìm chút hòa âm vọng hướng. Mãi đến nửa cuối thế kỷ XX,triết gia Heidegger mới chậm rãi chỉ ra sự sai lầm tai hại của mấy ngàn năm triết học phương Tây và nỗ lực tìm ra  một  cuộc hội thoại chân chính với phương Đông. Trong khi đó tại phương Đông, trừ một ài nhân cách đặc biệt , các thức giả do choáng váng trước nền khoa học phương Tây, lại vội vã vất bỏ tất cả kho tàng minh triết phương Đông, hối hả chạy theo các trào lưu triết học vong bản phương Tây và cứ cho rắng mình tiên tiến lắm!

Quay về phương Đông, bàn về thiên nhiên, bàn về lê biến hóa của vũ trụ, có lẽ không bằng Kinh dịch. Bản thân chữ Dịch gồm hai chữ nhật và nguyệt (dạng biến thể) ghép lại. Chữ nhật (mặt trời) tượng trưng cho sự  biến dịch, đổi thay. Cho nên trong chữ Dịch  ngoài nghĩa là biến dịch, thay đổi vẫn hàm ý bất biến  nữa. Trong thiên nhiên, giữa dòng thác đó của vạn hữu, giữa dòng sinh sinh hóa hóa vô tận của Thệ giả như tư phù! Bất xả trú dạ (Khổng Tử), vẫn có một cái làm chủ tể cho mọi biến dịch, làm nền tảng cho mọi thay đổi  của sum la vạn tượng, như là pháp tác thường hằng. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì trong lưu chuyển giới vẫn tồn tại một Niết bàn giới thường hằng bất biến (3).

Là Plusis lại chính lá Ê tre, nhờ đó mà vạn hữu trở nên quán sát được và duy trì được khả năng có thể quán sát đó. La Fusis est l` être même, grace auquel l`étan devient observable et reste observable. (tr22)

Ê tre (Sein, Being) thường được dịch là Hữu Thể, Chân tình, Tinh thể, Hằng thể v.v.. nhưng cac từ đó thường bị ngộ giải theo các phạm trù triết học phương Tây, nên vẫn thiếu sắc thái linh động cần thiết để diễn tả  được những gì hàm ẩn trong Être. Có lẽ Tồn Lưu  là từ hay nhất để diễn dịch khái niệm này. Tồn có nghĩa là tồn tại, nhưng độc đáo nhất vẫn là chữ Lưu. Viết Tồn Lưu theo tiếng Hán thì lại không đúng theo nghĩa trong tiếng Việt. Nếu viết lưu theo nghĩa lưu chuyển, lưu động, luân lưu thì sự trôi chảy, chuyển động, linh hoạt, nếu viết theo nghĩa  lưu trụ, lưu thú thì lại hiểu theo nghĩa  tồn lập, trì tốn (demeurer). Trong tiếng Hán chỉ có thể viết được chữ lưu bằng một trong hai cách. Bản thân chữ Lưu trong từ Tồn Lưu tiếng Việt lại hàm hỗn mang được ý nghĩa của cả hai ý trên. Ấy chính là nội dung của Dịch, của fusis vậy.

Ông Suzuki bàn về thế giới Hoa Nghiêm sự sự vô ngại pháp giới, một thế giới chỉ có thể kiến chiếu bằng trực giác tâm linh đã nói:

Trực giác tâm linh…là thời gian và cũng là không gian, nó động tới thời gian động, nó trụ với không gian trụ; lúc nào nó cũng chớp nhoáng, cũng thoát trôi, cũng “chuyển”, mà không hề lìa chỗ ban sơ, vẫn “hằng”…Hằng mà chuyển: chừng như nó đứng im một chỗ, vĩnh viễn  trụ ở hiện tiền mà vẫn lưu chuyển không ngừng, từng phút trong giờ từng giây từng phút”(4).

Nhìn trên một bình diện khác, đoạn văn trên của ông Suzuki xem như đoạn chú giải về fusis của Heidegger và Tồn Lưu của Bùi Giáng!

Chính ông Bùi Giáng cũng nói:

Ngoài tiếng Tồn Lưu ra quả thật tôi chẳng thể nào gẫm ra một tiếng nào thơ ngây khác khả dĩ nhiếp dẫn được một dòng tương ứng giữa hai bờ hai cõi hai vũ trụ hai thời gian…Tiếng nào khác thảy thảy đều vướng vào một cái khối ù lì nào đó. Thực thể, Tồn thể, Thể tình, Chân tình.v.v…đều không lung linh bài động ôn tồn cho một dòng phi tuyền khả dĩ thành tựu một cuộc Trùng Phúc Qui Hồi có tính khơi dẫn một mạch ngắm đã bị vùi lấp từ trên hai ngàn năm(5).

Từ Phusis trong buổi bình minh tư tưởng Hy-lạp đến Tồn Lưu của Bùi Giáng có khoảng cách của mấy ngàn năm triết học, nhưng chúng lại tương ứng một cách vô cùng tinh diệu và khai mở lại một thông lộ để thế hệ mai sau có thể tìm về với cõi Hy-lạp Sơ Nguyên và Đông Phương Sơ Thủy.

Huỳnh Ngọc Chiến
Nguồn: Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 49-50

-------------------

Ghi chú:

(1). Tất cả các đoạn Pháp văn tron bài viết ngắn này đều được trích dẫn từ cuốn Introduction à la Métaphysique của Heidegger, qua bản dịch của G.Kahn, NXB Epiméthé, 1958.
(2). Sương tỳ hài. NXB An Tiêm. Tr46
(3) Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận, kimura, Taiken, Thích Quảng Độ dịch, tu thư Vạn hạnh 1969, tr200.
(4) Cốt tủy của đạo Phật, Suzuki, Trúc Thiên dịch, NXB An Tiêm 1968, tr.120
(5) Thúy Vân và Tam Hợp đạo-cô. NXB, 1969, tr.63