Ngày đăng : 28/03/2008

Chúng ta không nên ngủ quên trên kho báu của nhân loại - Tham luận cho Hội thảo "Người Việt có mê đọc sách?"


 

Trong số nhiều thế giới mà con người được tặng - không phải từ thiên nhiên, mà từ sự tự tạo của chính trí tuệ mình - thì sách là thế giới vĩ đại nhất.

Hermann Hesse

Thật là hữu ích khi chúng ta bàn về sách. Có rất nhiều điều để nói về sách, có thể viết ra thành nhiều tập. Nhưng có lẽ trước hết hãy để một số danh nhân lịch sử phát biểu về sách để chúng ta suy ngẫm:

Ai chỉ đọc báo, hay xa hơn là sách của các tác giả đương thời, đối với tôi giống như một người bị cận thị nặng nhưng lại từ chối đeo kính. Người đó hoàn toàn bị lệ thuộc vào thành kiến và khuynh hướng thời trang, bởi vì người ấy không bao giờ thấy hay nghe bất cứ cái gì khác cả. Những suy nghĩ của một con người chỉ biết mình và không được gợi ý bởi những ý tưởng và kinh nghiệm của người khác, trong trường hợp thuận lợi nhất cũng chỉ là nghèo nàn và buồn tẻ.

Trong thời gian một thế kỷ mới có vài người được khai sáng để có được một sự hiểu biết toả sáng, phong cách và khẩu vị. Những gì chứa đựng trong các tác phẩm của họ là những tài sản quý giá nhất của nhân loại. Chúng ta do đó cám ơn một vài nhà văn của thời cổ đại đã giúp cho con người trong thời trung cổ giải phóng mình ra khỏi sự mê tín và thiếu hiểu biết, những cái đã làm cho cuộc đời họ tăm tối hơn năm trăm năm. Không có gì cần thiết hơn là việc khắc phục tính phô trương của con người tân thời chủ nghĩa của hiện tại!

Albert Einstein

Tạo thêm một thư viện cho một căn nhà là cho căn nhà đó một linh hồn.

Cicero

Khi tôi có một ít tiền, tôi mua sách; nếu còn lại, tôi mua thức ăn và áo quần.

Desiderius Erasmus

Đại học đích thực của những ngày này chính là một sự sưu tập của sách

Thomas Carlyle

Các loại giải trí khác là đặc biệt cho những thời nào đó, những chỗ, giai đoạn nào đó của cuộc sống, nhưng sự nghiên cứu sách vỡ là sự nuôi dương của tuổi trẻ, và niềm vui của tuổi già. Chúng đem lại sự lộng lẫy cho phồn vinh, và là nguồn, là niềm an ủi của sự không may; chúng đem lại niềm vui trong nhà, không phải là sự bối rối, chúng là những người bạn đồng hành của chúng ta trên cuộc hành trình, và là những người phục vụ trong những lúc nghỉ ngơi ở thôn dã.

Cicero

Một đồng đô la được đầu tư vào một quyển sách và một quyển sách được tinh thông có thể làm thay đổi cả cuộc đời của một cậu bé. Nó có thể dễ dàng trở thành bước đầu của một sự phát triển của một tài năng lãnh đạo để đưa cậu bé đi xa vào việc phục vụ cho đồng loại.

Henry Ford

Những điều tôi muốn biết đều ở trong sách; người bạn tốt nhất của tôi là người sẽ cho tôi một cuốn sách mà tôi chưa đọc.

Abraham Lincoln

Tôi vẫn theo các sách cũ, vì chúng dạy tôi được một điều gì; từ những sách mới tôi học được rất ít.

Voltaire

Một liều chất độc có thể có tác dụng tức khắc, nhưng một quyển sách xấu có thể tiếp tục đầu độc tinh thần hằng nhiều thế hệ.

W.John Murray

Đây là bản thống kê sách của một số thư viện nổi tiếng trên thế giới:

Thư viện quốc gia Anh (London):                   25 triệu (British Museum)

Thư viện quốc gia Pháp:                                13 triệu

Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (Library of Congress, Washington):   29 triệu

Thư viện Đại học Harvard:                             15 triệu

Thư viện Nhà nước Berlin:                             10 triệu

(Chưa tính thư viện quốc gia kết hợp Leipzig và Frankfurt, khoảng 20 triệu)

Thư viện quốc gia Nga St Petersburg:            20 triệu

Thư viện Đại học Tokyo:                                 8 triệu

Thư viện Đại học Shanghai:                            3 triệu

Thư viện Đại học Waseda:                              4.5 triệu

Thư viện quốc gia Singapore                          16 triệu

Thư viện quốc gia Hà Nội:                                2 triệu

(Trong đó số sách ngọai là 95.497, không kể sách với tiếng nói trong khu vực)           

Trên đây chỉ nói các đầu sách, chưa kể các ấn phẩm định kỳ, bút tích,…

Tại các nước phát triển, mạng lưới thư viện là dầy đặc, từ trung ương (thư viện quốc gia) đến địa phương (thư viện đại chúng ở các quận huyện), qua các đại học, cao đẳng, trường học, trường chuyên ngành, tổ chức, hội đoàn,…, chưa nói đến hàng triệu thư viện tư nhân, học giả, khoa học gia, chính trị gia, luật gia, nhà nghiên cứu, văn sĩ,… và những người chơi sách. Các quốc gia, kể cả vua chúa trước đây, hoặc các đại học lớn đều hãnh diện về những thư viện bề thế của mình, đầu tư mua sắm rất nhiều, và xem thư viện như biểu tượng của tri thức, bộ mặt văn hóa. Các thư viện lớn đều là những công trình kiến trúc nổi tiếng. Việt Nam muốn đầu tư cho hệ thống thư viện hiện đại cần một số tiền phải đến vài tỉ đô la.

Một vài sự kiện về ngày sách quốc tế:

Năm 1872 UNESCO đã tuyên bố là Năm Sách quốc tế.

Năm 1995 UNESCO tuyên bố ngày 23.4 là Ngày Sách thế giới và Bản quyền. Đó cũng là ngày mất của ba vị đại văn hào thế giới Cervantes, Shakespeare và Inca Garcilaso de la Vega vào năm 1616. Ngày đó còn là ngày sinh, hay mất của nhiều văn hào tên tuổi khác trên thế giới. Tại Tây Ban Nha, ngày này cũng là ngày lễ sách truyền thống của nhân dân của tỉnh Catalonia: người ta bầy bán sách ngoài đường, tặng hoa hồng cho mỗi cuốn sách được bán ra, tổ chức những buổi đọc sách, bình sách cho công chúng. Nó là một sự kiện văn hóa có tính chất dân tộc. Ngày nay nhiều nước trên thế giới đã lấy ngày này làm ngày sách cho cả nước, với sự tham gia của vô số nhà xuất bản và nhà sách. Tại Đức, từ 1996, xung quanh ngày 23.4, có nhiều sinh hoạt văn hóa như tổ chức hội sách, đọc sách nhiều thể lọai, giao lưu với tác giả.

Bây giờ trở lại câu hỏi, người Việt Nam đọc sách ít hay nhiều. Chắc hẳn mọi người sẽ không khó trả lời câu hỏi này. Hay chúng ta hỏi ngược lại, Việt nam có được bao nhiêu sách, bao nhiêu thư viện cổ, so với thế giới? Tại sao một dân tộc được cho là hiếu học mà lại ít sách như thế? Tôi chợt nghĩ ra, có lẽ dân ta hiếu học, nhưng thực sự chỉ một “giai cấp” nhỏ nào thôi, và vì có quá ít sách, hay đó lại là cội rễ của việc có ít sách, mà dân ta, hay giai tầng hiếu học kia chỉ biết học từ chương, kinh điển, cứ học đi, học lại, xuyên bao nhiêu thế kỷ, chứ không hề thấy cần thiết phải thay đổi nội dung, phải đi tìm cái mới. Tại phương Tây sách vở biểu hiện cho quá trình tư duy, cho nên thời nào cũng phong phú. Với kỹ thuật in của Gutenberg thế kỷ 15, sách dần dần trở thành một “quyền lực”, một sức mạnh tư duy ngày càng được phổ biến đến nhiều tầng lớp dân chúng, đặc biệt vào đầu thế kỷ 19, với những phát minh máy in nhanh của Đức, sự phát triển lan truyền ấy đạt đến tốc độ bùng nổ. Phương Tây có rất nhiều sách, và người ta đọc sách và học từ sách cũng rất nhiều (đa số các thiên tài khoa học đều là những người tự học, nghĩa là học từ sách vở), nghiên cứu rất nhiều, viết sách rất nhiều, trí tuệ hầu như không bao giờ ngưng trệ, hay có ngưng trệ giai đoạn nào đó rồi lại bứt phá để tiến lên. Không phải vì có nhiều sách, và đọc nhiều sách mà họ đâm ra “giáo điều”, từ chương, như phương Đông. Không phải thế. Có lẽ cũng chính vì họ luôn luôn có sách mới, chuyển tải bao ý tưởng mới trên mọi lãnh vực, mà họ không bị giáo điều. Họ luôn luôn động não, luôn luôn sáng tạo ra ý tưởng mới, văn hóa và học thuật luôn luôn đổi mới. Xã hội họ là xã hội động. Trong khi phương Đông, trong đó có Việt Nam, có quá ít sách, vì thế đi vào từ chương, giáo điều. Hay nói cách khác, vì giáo điều, từ chương mà thế giới ý tưởng, khoa học, văn hóa, và do đó sách như phương tiện chuyển tải ý tưởng bị bế tắc! Xã hội phương Đông là xã hội tĩnh. Ở đâu cũng thế, khi giai cấp thống trị càng giáo điều hay từ chương thì tư tưởng và học thuật không thể phát triển được, và tất yếu công nghệ và văn hóa sách càng không phát triển. Còn ở đâu chính sách càng cởi mở về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, ở đâu những giá trị tinh thần được trân trọng, nâng niu, ở đó tư duy, văn hóa sách phát triển lan truyền mạnh mẽ, thăng hoa, để phục vụ cho học hỏi, trao đổi và nghiên cứu.

Sách là biểu tượng cho óc tò mò học hỏi, sáng tạo, biểu tượng của tài sản văn hóa, học thuật của một dân tộc. Nhật Bản có lẽ là một dân tộc, từ ngày tiếp xúc với thế giới phương Tây, đã tỏ ra một dân tộc ham học hỏi cái mới một cách đam mê, và “bừng bừng” như lửa cháy, với tất cả khát vọng muốn được biết, và muốn vượt lên trên hàng đầu với thế giới. Họ biết thế giới đã phát triển trước họ hàng trăm năm, họ bị tụt hậu, và họ cương quyết muốn đuổi kịp. Và để đuổi kịp, họ muốn biết tất cả những gì phương Tây đã sáng tạo ra trước đó, đã làm nên sức mạnh thần kỳ đó. Họ say mê hiểu biết một cách cuồng nhiệt, muốn chiếm lĩnh tư tưởng và văn hóa của phương Tây, và muốn chứng minh họ cũng biết tất cả, và không thua kém ai. Chuyện họ đã sớm dịch tất vô số sách thuộc loại “kinh điển” ra tiếng của họ gần đây đã được nhiều người nói đến. Nhưng điều làm cho những người ưu tư đến công cuộc chấn hưng đất nước không khỏi lo lắng, là khi biết rằng vào thời điểm này, thế kỷ 21, một số cuốn sách hay thuộc loại “kinh điển” của nước ngoài đầu tiên được dịch ra tiếng Việt chỉ bán được với số lượng chỉ vài ngàn quyển thôi, với số dân hơn 80 triệu, trong khi đó những cuốn sách đó đã từng được dịch và được bán đến hàng triệu bản tại Nhật Bản thời Minh Trị rồi, với số dân chỉ vài chục triệu thời đó. Đây chẳng phải là điều gây sốc, nếu ai bình tâm suy nghĩ hay sao? Đó đáng lẽ phải là điều làm thất kinh cho những ai biết lo lắng đến tiền đồ của đất nước. Bao giờ dân Việt đạt được sức đọc mạnh như sức đọc của dân Nhật hơn một trăm năm trước đây? Bao nhiêu năm nữa? Vì sao chúng ta, một dân tộc bốn nghìn năm văn hiến, mà nay sức đọc quá thấp kém như thế đối với dân tộc “võ sĩ” như Nhật Bản đã từng làm? Hệ quả của nó cũng sẽ rất nghiêm trọng. Với tốc độ đọc sách và học hỏi cái mới như thế, chừng nào chúng ta mới hiểu biết thế giới, và chấm dứt sự lạc hậu của chúng ta, chừng nào Việt Nam là dân tộc phát triển về tư duy, văn hóa theo kịp với thế giới?

Nước nào trên thế giới có tuyển tập Các Mác – Ăng Ghen qui mô đầu tiên trên thế giới? Xin trả lời rằng: không phải Liên Xô hay Trung Quốc, cũng không phải nước “chủ nhà” là Đức, quê hương của hai vị. Mà chính là Nhật Bản! Những tập đầu tiên của bộ tuyển tập được nhà xuất bản Kaizosha cho ra mắt năm 1928, và năm năm sau tuyển tập được hoàn tất. Nó chính là bộ tuyển tập qui mô đầu tiên của thế giới! Tập đầu tiên của bộ tuyển tập bán được 150.000 quyển. Trung bình mỗi tập được bán khoảng 120.000 quyển. Số lượng này không thể tưởng tượng được ở Mỹ và ở châu Âu vào thời điểm đó.

Cũng thế, tuyển tập đầu tiên của Einstein trên thế giới không phải được in tại Đức, châu Âu hay Mỹ, mà cũng chính tại xứ sở hoa anh đào này, vào năm 1922, và cũng chính tại nhà xuất bản Kaizosha. Nhà xuất bản này cũng là đơn vị có sáng kiến đứng ra mời Einstein sang thuyết trình cho một thời gian là 6 tuần tại các đại học và cho công chúng, và cùng lúc đó cho ra mắt tuyển tập bốn bộ của Einstein bằng tiếng Nhật, bao gồm những bài của Einstein không phải dễ tìm lúc đó. Nếu trong tiếp đón, người Nhật muốn biểu lộ họ không thua kém dân tộc nào trong việc ngưỡng mộ Einstein, thực sự họ đã dành cho Einstein một cuộc tiếp đón nồng nhiệt hơn các cuộc tiếp đón ở Mỹ, thì trong học thuật họ cũng muốn chứng minh họ không thua dân tộc nào trong việc nhanh chóng tìm tòi học hỏi cái mới. Phải nói đó là một nỗ lực phi thường của họ vào thời điểm đó.

Chúng ta đã quen với Fukuzawa Yukichi (1834-1901). Ông là đại biểu quan trọng nhất của thời soi sáng của Nhật Bản trong thời Minh Trị. Ông là người chủ trương hình thành các cá nhân tự chủ như những cột trụ của nền văn minh và chỉ khi xã hội có đủ các cá nhân tự chủ thì đất nước, quốc gia mới có thể độc lập, tự chủ được. Quốc gia nếu chỉ gồm những người dễ bảo, dễ dạy, thiếu hiểu biết, không đầu óc, thì không thể có hay bảo vệ độc lập, tự chủ lâu dài được. Trước ông, đầu thế kỷ 19, nhà cải cách Phổ Freiherr von Stein, và những đồng nghiệp của ông cũng đã nói thế, và thực hành như thế. Thời đại Fukuzawa là thời làm đảo lộn giá trị xã hội, người Nhật có cái kỳ tài, là tuy trong lịch sử mình cũng đã từng lấy các triều đại vua Trung Quốc làm “mô hình nhà nước” làm mẫu, nhưng đến thời Minh Trị, họ có sức mạnh tự phát, như một sự bừng tỉnh tức khắc, cái mà người Việt Nam không có, biết khôn ngoan chuyển đổi ngay, vứt bỏ ngay các mô hình của quá khứ để chuyển đổi nhanh chóng sang mô hình “Châu Âu và Mỹ”, thay đổi các bậc thang giá trị, từ “sein” (tồn tại theo cái cũ) sang “tun” (hành động theo cái mới). Chính vì vậy mà nước Nhật mới phát triển nhanh chóng. Trong khi Việt Nam không có được sức mạnh tự phát như thế để nhận thức và chuyển đổi tình thế nhanh chóng. Fukuzawa viết: “Những ai làm những việc khó khăn hôm nay, người ta gọi họ là những người cao thượng; những ai làm những việc dễ, người ta gọi họ là những người thấp kém. Làm một cái gì hữu ích cho con người, như bằng cách người ta cách đọc sách, và suy nghĩ, điều đó có lẽ là khó khăn. Do đó ranh giới để phân biệt giữa những người cao thượng và thấp kém chỉ nằm ở tính chất khó khăn của công việc mà họ làm. Cho nên hôm nay có rất nhiều Đaimô, Quý phái cung đình, Samurai, và những người khác, họ tuy có trông đẹp đẽ khi họ ngồi trên lưng ngựa và đeo gươm ngắn, gươm dài, nhưng họ hầu như rỗng tuếch bên trong, như một cái thùng tô nô rỗng… Họ tiêu pha những tháng ngày của họ không vất vả và không mục đích. Thật không có lý do nào để gọi những người như thế là cao thượng, hay của đẳng cấp quan trọng! Chỉ vì họ từ nhiều thế hệ có tiền được tiếp tục truyền lại, và lúa gạo, họ làm ra vẽ đẹp đẽ. Nhưng họ chính là những người thấp kém.” Đó là một đoạn văn trong tập sách có tên “Các bài học của ngày thường” của ngài Fukuzawa viết cho trẻ em. Một tiếng nói cực kỳ đanh thép để phân biệt cái thật, và cái giả. Ngài đã muốn dạy cho con người từ lúc còn trẻ phải biết phân biệt được đâu là những việc làm cao cả và thấp kém, để tránh đi vào lối mòn thấp kém của thói ỳ lịch sử.      Vâng, “đọc sách, và suy nghĩ”, nghĩa là đi tìm tòi cái mới cho bản thân và dân tộc, và dĩ nhiên là nghiên cứu và viết sách, làm sao cho văn hóa đọc của đất nước ngày càng thêm phong phú, là những công việc cao cả mà ngài Fukuzawa Yukichi muốn nhắc nhở mọi người. Chỉ sống với những cái cũ kỹ, ỷ lại, với chân lý thói quen, đó là thấp kém, chỉ làm hại thêm cho đất nước.      Thế giới sách vở vẫn còn quá xa lạ đối với người Việt Nam. Cả một thế giới ý tưởng, bao gồm ý tưởng khoa học, nghệ thuật, văn học, triết học, chính trị của nhân loại hãy còn xa lạ ở đây. Thế giới của người Việt Nam giống như một “thế giới phẳng”, nó “lép” như “bốn ngàn năm ngực lép” như một nhà thơ Việt Nam đã diễn tả rất hình tượng và cũng rất chính xác, những kiến thức của chúng ta về thế giới hãy còn quá ít ỏi, chỉ mới làm cho thế giới phẳng đó gợn lăn tăn đôi chút, chẳng ăn thua gì. Thế giới phẳng đó mang trong mình một sức ì nặng nề không thể tưởng tượng nổi, như một “lỗ đen”, quyết không để con người thoát khỏi nó để thấy ánh sáng “khai minh”, để hiểu biết và hòa nhập với thế giới bên ngoài…

Chúng ta không nên “ngủ quên” trên kho báu trí tuệ chứa đựng trong sách vở của thế giới từ hơn 2.500 năm nay. Chính trong đó mà dân tộc Phù Tang đã tìm được thanh báu kiếm của vua Arthur như trong truyện thần thoại Anh cho trẻ em. Người Việt Nam cần thiết đổi thói quen của mình hôm nay. Cần tìm đến sách, hơn là chỉ biết tìm đến những thỏa mãn vật chất nhất thời. Chúng ta đã đi quá chậm. Cái đầu của thiên hạ đi trước cái đầu của chúng ta đã ngàn dặm. Hãy tỏ ra là một dân tộc có ý chí vươn lên thành một dân tộc văn hóa cao. Hãy hiểu nguồn gốc của sự tụt hậu mấy trăm năm mà ông cha ta chưa hiểu như người Nhật đã hiểu. Hãy hiểu sức mạnh nằm trong tri thức: “Tri thức là sức mạnh”. Hãy nhớ, sách vở, tri thức cũng là “nguồn tư bản âm thầm sinh lợi”, như Goethe đã nói.

Ngày 4/3/2008

Nguyễn Xuân Xanh
TS, Nhà nghiên cứu