Ngày đăng : 16/06/2015

Hồ sơ Lục Châu Học


Như tác giả Nguyễn Văn Trung cho biết trong Lời nói đầu (ghi tháng 10.1990), bản thảo sách này đã được soạn xong từ năm 1986 nhưng vì quá dài nên chưa có điều kiện phổ biến. Ngoài ra, giới quan tâm theo dõi học thuật còn được biết trong những năm gần đây, toàn bộ nội dung sách đã được tải lên mạng Internet, nhưng nhu cầu muốn có được cuốn sách in trong tay để cầm đọc cho thoải mái thì chỉ mới đây, giữa tháng 1.2015, tức gần 30 năm sau kể từ khi tác giả hoàn tất bản thảo, nhà xuất bản Trẻ mới vừa đáp ứng được, bằng một ấn bản đẹp trang trọng dày 644 trang khổ giấy 15,5 x 23,5 cm, với tên gọi đầy đủ: Hồ sơ về Lục châu học Tìm hiểu con người ở vùng đất mới dựa vào tài liệu văn, sử bằng Quốc ngữ ở miền Nam từ 1865-1930

Cụm từ “Lục châu học” có phương thức cấu tạo tương tự như nói “Nam Bộ học”..., nhưng riêng hai chữ “Lục châu” mà các nhà văn nhà báo miền Nam quen dùng một thời để chỉ Lục tỉnh Nam Kỳ thì thế hệ trẻ bây giờ hầu như chẳng ai còn biết được trừ một số rất ít chịu khó lục tìm trong đống sách báo cũ của thời đó.    

Theo tác giả Nguyễn Văn Trung, “Mục đích công trình biên soạn này là từ việc trình bày một số tác phẩm văn hóa của một thời kỳ, tìm hiểu nếp sống của con người ở vùng đất mới. Chúng tôi đánh mốc thời kỳ này bằng hai biến cố chính trị tiêu biểu không có ý nghĩa rõ rệt về văn hóa: 1865, lúc Pháp mới chiếm Nam Kỳ, cho xuất bản "Gia định báo" và 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản” (trích “Lời nói đầu”, tr. 7).

Ngoài ra, tác giả còn muốn “Góp phần phục hồi một mảng văn học bị bỏ quên, bỏ qua”. Bị bỏ quên vì không biết có nó, còn bị bỏ qua vì tuy có biết nhưng do một cách đánh giá định kiến nào đó nên không xét đến, hoặc chỉ được nhắc tới qua loa với một vài tác giả miền Nam nổi cộm như Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Đông Hồ..., trên những bài khảo luận văn học hoặc sách văn học sử chủ yếu được biên soạn do những tác giả gốc Bắc, mà căn bản nhận thức của họ chủ yếu xuất phát từ lý do địa chính trị nhiều hơn chứ chẳng phải có sự chia rẽ hay phân biệt gì khác.

Có lẽ vì lý do tiện lợi là chính, cũng như để giảm bớt khó khăn và thời gian khi phải xử lý một khối tài liệu sưu tầm được quá lớn, đã in hoặc chưa in, chủ yếu mượn từ các thư viện tư nhân của thân hữu, GS Nguyễn Văn Trung đã khéo giới hạn việc trình bày sinh hoạt, văn hóa Nam Bộ thời kỳ này vào những tác phẩm văn xuôi bằng quốc ngữ thuộc văn chương, sử ký, báo chí, và trong văn chương chỉ đề cập thể loại văn truyện, tiểu thuyết lịch sử, tạm gác các thể văn khác như tuồng, thơ, văn học dân gian, đủ để chứng minh cho những nhận xét hoặc luận điểm tác giả đưa ra.

Sách gồm tất cả 11 chương với chương mở đầu “Một mảng văn học bị bỏ quên, bỏ qua” (tr. 18-62), và một bài không đánh số chương ở cuối, “Tiểu sử tác giả và đời sống viết văn, viết báo, tình hình ấn loát-phát hành” (tr. 559-628) cung cấp được khá nhiều thông tin thú vị.

Phương thức trình bày nói chung tương đối đơn giản, bằng cách chia vấn đề ra thành từng đề mục/ chủ đề (theo mỗi chương) rồi trích dẫn trực tiếp nguyên văn các đoạn văn hoặc thậm chí cả bài văn dài trong sách báo cũ thời kỳ 1865-1930, trước khi đưa ra những lời bình luận riêng, với một lượng thông tin ngồn ngộn tư liệu mà thế hệ nghiên cứu trẻ ngày nay không dễ gì kiếm được. Chính việc trích dẫn này tự nó đã tạo nên sức hấp dẫn của công trình, vì qua đó người đọc ngày nay có thể biết được những chuyện hay lạ chưa từng được nghe nói hoặc chỉ mới nghe loáng thoáng, và tất cả những chuyện đó lại được diễn đạt bằng lời lẽ, từ ngữ, giọng văn chất phác dễ thương của các nhà văn, nhà báo rặt ròng miền Nam thời kỳ đầu phát triển chữ viết và văn học quốc ngữ mang tính cách đặc thù Nam Bộ. Ngoài phần các nội dung thông tin và nhận xét đánh giá thông tin của một nhà biên khảo có uy tín, công trình của GS Trung vì vậy có thể còn là một nguồn tư liệu quý báu về ngôn ngữ để làm căn cứ biên soạn một bộ đại từ điển tiếng Việt tốt hơn trong tương lai.

Chương V “Cao Đài: Đạo của vùng đất mới” (tr. 298-377) có thể là một chương “có vấn đề” do nó đã công bố một số tư liệu liên quan đến thời kỳ đầu thành lập tôn giáo này mà hiện nay vẫn còn nhiều người chưa biết đến. Có lẽ vì vậy, nhà xuất bản đã khéo rào trước đón sau khi quyết định để nguyên chương này mà không biên tập cắt bỏ: “Bằng những tài liệu này tác giả đã phân tích dựa trên một tiền đề căn bản là đạo Cao Đài là một hiện tượng thuần túy Nam Kỳ. Việc nêu ra những tài liệu tranh cãi về buổi đầu hình thành đạo Cao Đài như là một phân tích có tính lịch sử về một tôn giáo mới có đặc thù Việt Nam. Nó không nhằm chỉ trích hay phê phán mà là một hiện thực khách quan để nghiên cứu và tìm hiểu...” (trích “Lời nhà xuất bản”).

Chắc chắn mọi người sẽ rất hoan nghênh sự đóng góp đầy ý nghĩa của Nhà xuất bản Trẻ trong việc công bố cuốn sách giá trị này của GS Nguyễn Văn Trung, người năm nay đã bước vào tuổi 85, định cư ở Canada từ 1994, và đã mất đến 29 năm chờ đợi cho công trình được công bố chính thức ngay tại quê hương xứ sở. Việc làm này có lẽ sẽ còn được tán dương hơn nữa nếu bản in rất công phu đẹp đẽ và đầy tâm huyết này đã không để lại khá nhiều hạt sạn do công việc biên tập có phần thiếu chu đáo gây ra: một số lỗi morasse (tuy nhiên không nhiều lắm); một số chỗ khác do không hiểu mà làm sai, như “viễn tượng” (từ thường dùng của GS Nguyễn Văn Trung) bị đổi thành “viễn tưởng”, tên tác giả Bùi Xuân Bào bị viết thành Bùi Xuân Bảo (tr. 631), nhân vật Nguyễn Văn Trước tự Tư Mát trong chương viết về đạo Cao Đài (mà chính tác giả Nguyễn Văn Trung cũng không rõ là Tư Mat hay Tư Mật... do đọc từ một bản tài liệu đánh máy) thật ra phải là Tư Mắt mới đúng...

19.1.2015 

Trần Văn Chánh 
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay Xuân Ất Mùi (tháng 2.2015)