Ngày đăng : 29/08/2011

Nguyễn Trường Tộ và vấn đề canh tân


 

Một cái nhìn khác và mới về Nguyễn Trường Tộ

 

Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một tên tuổi mà có lẽ không người Việt Nam có học nào trong thế kỷ XX và cả ngày nay chưa từng được một lần nghe đến. Trong học đường và trong học giới, người ta biết đến ông như một trí thức tân tiến của thế kỷ XIX, có tư tưởng canh tân, có tấm lòng yêu nước, đã từng dâng lên triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ nhiều đề nghị cải cách để làm cho dân giàu nước mạnh theo con đường văn minh của châu Âu. 

 

Song tiếc thay, dân ta lạc hậu, vua ta ngu tối, không nghe theo các điều trần đó. Cho nên khác với Nhật Bản, Việt Nam ta nước yếu, dân hèn, bị nước Pháp chinh phục và đô hộ. Có mấy câu ca tôi được dạy từ hồi còn học sơ học: “Nếu vua nghe lời/ Biết đường cải tổ/ Kén mặt dĩnh ngộ/ Trong bọn trẻ trai/ Đi học nước ngoài/ Thì đâu đến nỗi/ Dân ta tài giỏi/ Giàu mạnh bằng người/ Chắc rằng nước ngoài/ Hết nghề dòm dỏ...”.

 

Mất nước vào tay người Pháp là vì vậy. Ở đời, mạnh được yếu thua, ngu hèn thì mình chịu, lỗi đâu tại người.

 

Từ nhỏ cho đến trọn đời, tôi không bao giờ tin rằng nhà trường, giáo dục là phi chính trị. Nguyễn Trường Tộ như một nhân vật lịch sử và văn hóa xuất sắc, lỗi lạc không những là hiểu biết của chúng tôi khi còn nhỏ dại mà của cả nhiều bậc thầy của chúng tôi. Lớn lên, chúng tôi được dạy: Nguyễn Trường Tộ là nhà yêu nước sáng suốt (un patriote eclairé), nhà cải cách cô đơn (un reformiste solitaire). Chúng tôi khâm phục ông, thương cảm ông và tự an ủi rằng: Dù sao thì nước mình cũng có những người yêu nước thông minh chứ không phải toàn bọn ngu dại cả.

 

Cách mạng tháng Tám rồi kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, chế độ thực dân phong kiến bị xóa bỏ, nước nhà được độc lập, tự do, nhiều nhận thức sai lầm thời thuộc địa được điều chỉnh, nhiều thần tượng giả tạo mang tên Tây, tên Việt bị lật đổ, song cũng còn nhiều thần tượng khác sống sót. Nguyễn Trường Tộ có lẽ là một thần tượng như vậy. Tôi về Huế vẫn thường đi trên một con đường ở trung tâm thành phố mang tên Nguyễn Trường Tộ, thường đi mà không băn khoăn gì. Cùng với thời gian, nhận thức của tôi vẫn như xưa, mặc dù kiến thức có mở rộng hơn. 

 

Quyển sách đáng tin cậy của tôi về văn học thế kỷ XIX là Hợp tuyển thơ văn Việt Nam của NXB Văn Hóa Hà Nội có in tiểu sử và trích thơ văn của Nguyễn Trường Tộ, nhưng tiểu sử thì vắn tắt, thơ văn thì trích tuyển, không có gì khác hơn các truyền thuyết về ông. Về tác phẩm, sách trích tuyển hai bài văn nổi tiếng nhất của ông là Thiên hạ đại thế luận và Tế cấp bát điều. Đọc kỹ hai bài văn ấy, nếu chăm chú thì cũng thấy những chỗ "bất cập" trong đó, ví như tầm nhìn quốc tế của ông còn rất sơ lược và thiên lệch, những kiến nghị của ông cũng còn nhiều điểm đáng nghi ngờ. 

 

Không nói cái "đại thế thiên hạ" của ông rõ rệt có ý đề cao các nước đế quốc phương Tây, xem như chúng hoành hành khống chế thiên hạ, không gì ngăn cản được. Riêng trong "tám điều tế cấp" của ông lại có kiến nghị dùng chữ Hán đọc theo âm Việt để làm quốc ngữ, quốc văn. Tôi lấy làm lạ một người gọi là tân học tiên giác như ông mà lại không biết đến chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Nhưng lại nghĩ rằng: Dù sao ông cũng là người thế kỷ XIX, không thể giống với chúng ta ngày nay, dù sao như thế cũng đã là "đi trước thời đại" rồi.

 

Liên hệ với bản thân, tôi cho rằng, đa số người Việt Nam, kể cả giới trí thức và học giả, chỉ biết về Nguyễn Trường Tộ một cách gián tiếp qua truyền thuyết mà không để công đi sâu nghiên cứu, chỉ tin vào các công trình thời Pháp thuộc. Chúng ta biết về ông một cách sơ sài, nhiều sự kiện về ông vẫn còn trong bóng tối hay sương mù. Còn các tác phẩm của ông thì ngoài hai bài chính mà tôi đề cập trên đây (vốn bằng chữ Hán chưa được dịch toàn văn mà chỉ trích tuyển), các bản điều trần khác đều chưa được biết đến.

 

Vấn đề Nguyễn Trường Tộ được quan tâm nhiều hơn do hai hoàn cảnh đặc biệt sau đây:

 

1. Sau ngày nước nhà được hoàn toàn độc lập, thống nhất (1975), tiến vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, trước tình hình và nhiệm vụ lịch sử mới, không phải do tình thế một lúc mà còn do chiến lược lâu dài, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới, trong đó có vấn đề nhìn lại quá khứ để nhìn đúng hiện tại và nhìn rõ tương lai. Suy nghĩ (hay tư duy) của chúng ta trong hòa bình, độc lập, thống nhất, xây dựng, trên các vấn đề nhất định, phải đổi mới so với thời kỳ trước đó. 

 

Chúng ta có điều kiện để làm những việc trước đó phải gác lại. Không còn sức ép của chiến tranh, của ngoại xâm, đầu óc và tâm hồn chúng ta thoáng đãng, rộng rãi, tỉnh táo, toàn diện hơn. Và chúng ta cũng có thời gian và phương tiện để tìm hiểu nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa gần và xa, xưa và nay, ngoài và trong, thâu thái kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm quốc tế để đổi mới nước nhà, phục hưng dân tộc. 

 

Nhìn lại quá khứ, không chỉ tinh thần ái quốc, ý chí quật cường của các thế hệ đi trước mà cả những đau thương, tủi hận, những thất thố, sai lầm của họ cũng trở thành thân thiết, dưới mắt nhìn nghiêm túc và bao dung, sáng suốt và thông cảm của thế hệ chúng ta. Giữ nước và dựng nước là sự nghiệp gian nan, khó khăn, đã chắc gì thế hệ chúng ta sáng suốt, khôn ngoan, tài trí hơn các thế hệ trước, phải rút kinh nghiệm từ thành - bại, cả từ những yếu kém, sai lầm của họ để làm vốn liếng tinh thần cho hiện tại và tương lai.

 

2. Riêng về nhân vật Nguyễn Trường Tộ cũng như các nhân vật tương tự như ông, sau hòa bình thống nhất, chúng ta có điều kiện để tìm hiểu nhiều hơn về ông, bổ khuyết những chỗ còn thiếu sót trong thân thế và sáng tác của ông. Công việc này được một người tri thức Công giáo yêu nước nổi tiếng ở miền Nam nay đã quá cố, Linh mục Trương Bá Cần, Tiến sĩ Sử học, từng nhiều năm sưu tập tư liệu và nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ. Kết quả là tập sách Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo được xuất bản.

 

Mục đích công trình này của vị linh mục cũng dễ dàng nhận thấy: Ông muốn qua con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ để minh họa một điều mà có lẽ trong thâm tâm ông còn vương vấn: Đó là tấm lòng thiết tha với đất nước và những đóng góp trí tuệ của một người Công giáo Việt Nam cho vận mệnh của tổ quốc Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đen tối, đau thương của đất nước này. 

 

Đó là một người đã từng là linh mục như bản thân tác giả, trong nghịch cảnh của lịch sử và của thân phận mình đã tìm cách bày tỏ lòng yêu nước và việc làm ích nước theo khả năng và tâm niệm của mình. Và đó cũng là một điểm son đáng kể trong truyền thống yêu nước của những người Công giáo Việt Nam. 

 

Dù bị định kiến như thế nào, truyền thống đó vẫn là chủ lưu trong dòng chảy tâm thức, tâm linh của người Công giáo Việt Nam kính Chúa yêu nước. Đó cũng là con đường trước đây là "tìm về dân tộc" và ngày nay là "sống Phúc Âm trong lòng dân tộc". Chính nhờ tâm thức đó của người tu sĩ yêu nước, cộng với thái độ cầu thị của nhà sử học, công trình Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, với những tư liệu phong phú làm cơ sở của mọi nghiên cứu, thảo luận và tranh luận từ đó đến nay.

 

Bản thân tôi cũng nhờ vào công trình của Linh mục Trương Bá Cần mới biết rõ thêm về con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh mới của đất nước để có được những thông tin mới và suy nghĩ mới.

 

Từ những tư liệu mới bổ sung, tôi ngộ thêm ra hai điều sau đây mà trước đó chưa thấy:

 

1. Về thân thế của ông, có hai sự kiện mới đối với tôi: Đó là ông cùng với Giám mục đỡ đầu của ông là Gauthier đã có mặt trong nhóm các giáo sĩ Pháp và Việt Nam dẫn đầu bởi Giám mục Pellerin đến Đà Nẵng để đón tiếp đoàn quân viễn chinh Pháp năm 1958 đánh vào Cửa Hàn, khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đối với nước ta. Vì Rigault de Genouilly nhận thấy thời cơ bất lợi (còn chiến tranh ở Nam Trung Quốc) và lực lượng không đủ nên không dám tiến sâu vào nội địa của ta theo khẩn cầu của nhóm giáo sĩ này, nên buộc họ trở về nhiệm sở, còn thầy trò Gauthier và Nguyễn Trường Tộ thì theo yêu cầu của R. de Genouilly phải lánh sang Hồng Kông. Cho đến đầu năm 1861, lại theo yêu cầu của Phó Đô đốc Pháp Charner, hai thầy trò trở về Gia Định để giúp Tướng Charner tiến công và mở rộng chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. 

 

Trong thời gian này, ông cộng tác với quân Pháp, cùng với Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường làm việc phiên dịch tài liệu từ chữ Hán ra chữ Pháp cho Bộ Tham mưu quân Pháp. Ông còn có lúc làm trung gian hòa đàm giữa đại diện triều đình Huế với đại diện quân Pháp, giúp đạt được hưu chiến tạm thời, sau khi Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền Đông cần nghỉ ngơi để củng cố lực lượng và ổn định vùng đất mới chiếm được. Còn hơn cả Trương Vĩnh Ký, thời gian này, ông và Giám mục Gauthier còn liên lạc với triều đình Huế để gởi các "điều trần" cho triều đình, thậm chí có lúc nhận lãnh sứ mệnh của triều đình sang Pháp mua máy móc, mời giáo viên về mở trường kỹ thuật ở Huế. 

 

Tất cả những việc này ông làm trong thời gian giặc lần lượt chiếm hết Nam Kỳ và vua Tự Đức còn sống. Kể ra, triều đình đối xử với thầy trò ông cũng không đến nỗi kỳ thị. Bình Tây sát Tả là chuyện mãi về sau. Cho đến cuối đời (1871), ông và Gauthier còn có vai trò liên lạc giữa quân Pháp và triều đình Huế không để đưa ra nhiều kiến nghị canh tân? Một sứ mệnh như vậy, Trương Vĩnh Ký phải đợi đến sau 1884 mới làm theo ý của Paul Bert bên cạnh vua bù nhìn Đồng Khánh với nội dung khác. Nguyễn Trường Tộ mất sớm ở quê nhà 5 năm sau cái chết của Phan Thanh Giản và bi kịch thất thủ toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ và quân Pháp khởi đầu âm mưu tiến ra Bắc. Cho đến cuối đời, quan hệ của ông với Gauthier như thế nào? Có phải suốt gần 20 năm họ chung lòng sát cánh giúp quân Pháp vận động triều đình hòa giải với Pháp để canh tân đất nước?

 

2. Về tác phẩm của ông, công trình của Linh mục Trương Bá Cần cung cấp cho chúng ta các bản dịch toàn văn hầu hết các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ mà Trương Bá Cần gọi là các di thảo. Nhờ có được trước mắt một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ các văn bản đó chúng ta mới có thể xét đoán được toàn bộ nội dung của chúng, toàn bộ tư tưởng canh tân cũng như thực chất tinh thần yêu nước của ông. 

 

Đối với tôi, điều mới mẻ trước tiên mà toàn bộ tư liệu về tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ đã làm sáng tỏ là bối cảnh lịch sử và khung cảnh thời gian trong đó Nguyễn Trường Tộ viết và gởi các bản điều trần của mình. Hóa ra là như thế này: Theo trình tự thời gian, bản điều trần thứ nhất: Thiên hạ đại thế luận được viết năm 1863 khi thầy trò ông trở về Gia Định (có thể sớm hơn) và bản cuối cùng Nên mở cửa không nên đóng kín được viết năm 1871, năm ông qua đời. Như vậy, thời gian gói gọn là từ khi nước ta mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ đến lúc mất nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. 

 

Trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier ở vị trí như ông nói là "người bầy tôi của nước Đại Nam trốn ra nước ngoài", từ phía người Pháp để liên lạc với vua quan nhà Nguyễn. Các bản điều trần được lần lượt gởi lên triều đình trong các năm ấy, trong quá trình nước ta mất dần 6 tỉnh Nam Kỳ. Nhận rõ tính thời gian của các điều trần đó, đối với tôi, một vấn đề được đặt ra là: Giá thử Nguyễn Trường Tộ viết các bản điều trần đó với tấm lòng yêu nước ưu dân thật sự và với mong muốn chân thành nước nhà canh tân nhanh chóng theo các kiến nghị của ông, thì liệu triều đình nhà Nguyễn có thể thực hiện được không, khi lúc này giặc đã từ ngoài ngõ vào đến trong nhà, nguy cơ diệt vong đang diễn ra trước mắt? 

 

Đó là chưa nói từ đầu đến cuối, Nguyễn Trường Tộ thuyết phục triều đình giảng hòa với Pháp để có điều kiện canh tân thì điều đó trên thực tế phái chủ hòa trong triều đình với những người có thế lực như Trần Tiễn Thành - Thượng thư Bộ Binh, Phan Thanh Giản - Đại sứ lưu động, Kinh lược Nam Kỳ, chuyên cầu hòa và giảng hòa với Pháp, đã hết lòng thực hiện chính sách để cuối cùng từ mất 3 tỉnh miền Đông đến mất toàn bộ Nam Kỳ và sau đó mất cả nước. Thế thì tóm lại một lời, toàn bộ các điều trần đó ngoài những lời lẽ khoa trương, hoa mỹ (có người gọi là hào nhoáng và lừa dối), liệu có giá trị thực tế gì và tấm lòng yêu nước trong đó liệu có phải là thành thực hay đây là một thứ "quân trung từ mệnh" của Nguyễn Trường Tộ từ Bộ Tham mưu quân xâm lược gởi để "địch vận" thuyết hàng đối với triều đình Đại Nam([1])? Sau cái chết của Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long là sự hy sinh của Nguyễn Tri Phương rồi sự tử tiết của Hoàng Diệu ở Hà Nội: "Mười năm thương ước, lẽ nào tin được địch tâm?". 

 

Lời di biểu của Hoàng Diệu đã tổng kết chủ trương cầu hòa, chủ hòa của triều đình. Liên hệ với bối cảnh lịch sử lúc đó, "vạn ngôn thư" của Nguyễn Trường Tộ nếu không phải lời xảo trá của kẻ manh tâm dụ hàng thì cũng là lời trống rỗng của kẻ nho giả vu khoát? "Sự nghiệp" vận động của Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức từ sau hiệp ước 1862, sau khi ông chết sẽ được Trương Vĩnh Ký tiếp tục ở "tầm cao mới" bên cạnh vua bù nhìn Đồng Khánh, từ sau hiệp ước 1884.

 

Công trình của Linh mục Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo đã cung cấp tư liệu để thấy rõ hơn nhân vật này qua màn sương của quá khứ và của những truyền thuyết về ông từ trước cho đến lúc này trong nhận thức của tôi. Cũng như đối với Trương Vĩnh Ký, tôi đã thay đổi nhận thức và đánh giá của mình đối với ông.

 

Vì không phải là nhà sử học, chỉ là người học sử để dạy văn, mà Nguyễn Trường Tộ không phải là nhà văn đáng lưu ý của thế kỷ XIX, cho nên tôi chỉ bằng lòng với nhận thức đã thay đổi của mình mà không tìm cách đi sâu thêm nữa.

 

Khi Trung tâm Hán - Nôm của Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh mở cuộc hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, ở đó vợ tôi là nhà nghiên cứu Hán học Phạm Thị Hảo có bản tham luận về các kiến thức và quan điểm sai lầm trong các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ có liên quan đến văn học và văn hóa truyền thống Trung Hoa, tôi không tham dự và sau đó cũng không tán thành mọi nhận định quá đáng về nhân vật này. Tôi cũng hiểu rõ động lực nào đã thúc đẩy những mối nhiệt tình quá đáng đó. Tuy nhiên, cũng vì lý do đã nói trên, tôi không công khai phát biểu điều gì.

 

Sau đó không lâu, tôi đọc được trên mạng thông tin và nội dung cuốn sách Nguyễn Trường Tộ, thực chất con người và di thảo của hai tác giả người Việt ở Hoa Kỳ là Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc. Cuốn sách này bình luận và phản biện tập sách của Linh mục Trương Bá Cần. Tôi có nhiều điểm đồng tình với hai tác giả, nhất là phần nghiên cứu của Nguyễn Kha. Về cơ bản, công trình của Nguyễn Kha đáp ứng được hai băn khoăn còn tồn tại trên đây của tôi về Nguyễn Trường Tộ với những trích dẫn từ các điều trần của Nguyễn Trường Tộ liên hệ với các sự kiện lịch sử đương thời được minh chứng bằng nhiều sử liệu chuẩn xác, thuyết phục. Những chỗ còn nghi ngờ của tôi về con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ được giải đáp bằng nhiều sử liệu có liên quan, tuy chưa phải tất cả. Cũng vì nghĩ mình không phải là nhà sử học, cho nên dù tán thành hay đồng ý, tôi cũng chỉ mình biết lấy mình, tự mình giải tỏa băn khoăn cho mình, còn làm sáng tỏ vấn đề hơn nữa thì cần đợi các thức giả và học giả có uy tín và thẩm quyền học thuật hơn.

 

Gần đây, năm 2008, một trong hai tác giả cuốn sách xuất bản ở Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Kha (bút danh lúc này là Bùi Kha) nhân dịp về nước, có ghé Thành phố Hồ Chí Minh và tôi được gặp anh ở Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Tôi thật lòng khen ngợi cuốn sách của hai anh mà tôi có đọc trên mạng, nó giúp tôi cởi bỏ nhiều nghi ngờ, băn khoăn về Nguyễn Trường Tộ. Nhân dịp này, anh Bùi Kha tặng tôi một bản in công trình của anh tại hải ngoại, bản này mang tên là Nguyễn Trường Tộ sau bức màn canh tân, nội dung cũng giống như tác phẩm tôi đã đọc qua. Biết tôi có viết bài Thay lời tựa cho cuốn Trương Vĩnh Ký, cuốn sổ bình sanh của Nhà Sử học Nguyễn Sinh Duy thực hiện trước năm 1975 do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học tái bản năm 2003, anh cho biết nguyện vọng sẽ xin phép tái bản ở Việt Nam công trình của anh về Nguyễn Trường Tộ và ngỏ ý muốn tôi viết cho mấy lời đầu sách như bài của tôi viết về Trương Vĩnh Ký. Tôi từ chối nhã ý của anh và nói rằng anh không nhất thiết phải in lại sách này ở Việt Nam vì theo tôi biết, cũng đã có nhiều người biết đến nó, nhất là các nhà sử học ở Viện Sử học và Hội Khoa học Lịch sử, họ có đủ tư cách để phản biện và bình luận về cuốn sách của anh hơn tôi. 

 

Anh nên đề nghị với họ cho ý kiến, nhất các học giả anh có nhắc đến và tranh luận trong sách của anh như Giáo sư Chương Thâu, Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Đình Chú... Tốt nhất là trước mắt, các kết quả nghiên cứu của anh, anh nên viết thành các bài báo, nếu được tạp chí Hồn Việt của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học thuộc Hội Nhà văn Việt Nam đăng thì rất tốt, để chất chính các độc giả và học giả trong nước. Anh đồng ý với tôi và đã thực hiện điều tôi góp ý. Sau đó, tạp chí Hồn Việt cũng có đăng một số bài của anh về Nguyễn Trường Tộ và nói chung cũng được độc giả tiếp nhận tốt.

 

Bẵng đi một thời gian, qua điện thoại từ Hoa Kỳ rồi trực tiếp khi về nước, năm nay, anh lại đặt vấn đề với tôi. Lần này, Giáo sư Mai Quốc Liên, Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, Tổng Biên tập tạp chí Hồn Việt cùng góp lời với anh, đề nghị với tôi một lần nữa và gởi cho tôi bản vi tính cuốn sách; dự định biên tập để xin phép xuất bản tại Việt Nam.

 

Cũng như các lần trước, đọc bản thảo lần này của Bùi Kha, tôi tán thành phần lớn các dẫn liệu và nhận xét của anh về "con người và di thảo" Nguyễn Trường Tộ. Đó là cái nhìn khác và mới, chúng có thể giúp người đọc như tôi thay đổi nhận thức đã có về ông trước nay do chưa đọc hết hay đọc kỹ các di thảo đó một cách có hệ thống và liên hệ chúng với hành trạng và hoàn cảnh của ông trong thời gian viết và gởi các điều trần. 

 

Về nội dung, tôi có phần dè dặt trước các khẳng định của tác giả nhất nhất quy kết các điều trần đều viết với sự chỉ đạo của các giới quân sự và tôn giáo về phía quân xâm lược và chiếm đóng Pháp, mặc dù cũng có cơ sở để xét đoán như vậy song không nên khẳng định hoàn toàn, nhiều chỗ nên đề xuất dưới dạng nghi vấn hay đối chiếu để người đọc phán đoán thì tốt hơn, tránh cho người đọc sự hiểu lầm tác giả có định kiến sẵn... 

 

Tất nhiên, công trình của Bùi Kha có thể xem là một luận đề (thèse) được nêu lên để chứng minh bằng các sự kiện và văn bản lịch sử. Hãy để cho sự việc nói thay mình vẫn tốt hơn những lời khẳng định đôi khi như những lời buộc tội. Và, nó cũng sẵn sàng đón nhận các lời phản biện.

 

Có lẽ đây là nhược điểm của Bùi Kha mà một người phê bình ở hải ngoại nhận xét rằng, có lẽ vì tác giả không phải là nhà văn chuyên nghiệp nên lời lẽ có phần "thiếu trau chuốt và suôn sẻ". Dù là sáng tác hay nghiên cứu, văn là người, nhiều chỗ Bùi Kha khá thẳng thừng, không khôn khéo tế nhị lắm. Dù sao theo tôi cái tâm của người viết ở đây có thể thấy rõ được.

 

Nguyễn Du có câu thơ: "Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn?" (Tính như chân con hạc, cắt ngắn làm sao được?). Có lẽ là vậy chăng?

 

Cuối cùng, có một điều trong cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ mà tôi vẫn còn băn khoăn. Các bài viết về tiểu sử của ông trong đó có tài liệu của gia đình ông cho biết rằng, lúc cuối đời, ông có bày tỏ tâm sự chung thân của mình bằng hai câu thơ cổ: "Nhất thất túc thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu dĩ bách niên thân" (Một bước sa chân muôn thuở hận/ Quay đầu thân thế đã trăm năm). Dù hai thân phận khác nhau, song cuộc đời ông phải chăng so với Trương Vĩnh Ký cũng có những chỗ tương đồng. Dù ca ngợi hay lên án ông, song nơi con người có thể xem là tài hoa và mệnh bạc đó hẳn còn có nhiều tâm sự ông mang theo mình xuống đất? Phải chăng cái ánh sáng cuối đời đó của ông có thể soi chiếu cả cuộc đời ông? Công trình của Bùi Kha chưa đặt ra vấn đề đó, thành thử vấn đề Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo chưa thể xem là đã có thể có câu trả lời cuối cùng.

 

Tôi chia sẻ với những lời cuối cùng của tác giả trong phần kết: "Nghiên cứu và đánh giá các biến cố và sự kiện lịch sử sẽ giúp chúng ta và thế hệ mai sau học được bài học "ôn cổ tri tân".

 

Mong ước cuối cùng của tôi là, đề nghị các sử gia chuyên về lịch sử Việt Nam trong thời Pháp thuộc và Viện Sử học Việt Nam nên có một chương trình và kế hoạch sưu tầm các tài liệu mật tại các Thư khố Pháp và tại Bộ Truyền giáo Hải ngoại Paris để có một sự đánh giá xác đáng về các nhân vật lịch sử thời bấy giờ, trong đó có Nguyễn Trường Tộ. Còn bài viết của tôi cũng còn hạn hẹp cần bổ túc rất nhiều, mong được các bậc cao minh chỉ giáo".

 

Viết bài này giới thiệu tập sách của Bùi Kha, tôi cũng mong nhận được sự chỉ giáo tương tự để được tiếp tục sáng tỏ thêm nhận thức của mình.

 

GS-NGND Trần Thanh Đạm (TP. Hồ Chí Minh, ngày 30/3/2011)

(Trích Lời Giới thiệu)

 

Chú thích [1]: 

(Nhiều bài di thảo, Nguyễn Trường Tộ sử dụng từ Đại Nam và nước Việt (ViệtNam). Do đó trong sách, chúng tôi dùng cả hai từ này. Còn người Pháp thì dùng từ An Nam để chỉ nước ta (BBT Nhà xuất bản Văn học).