Ngày đăng : 31/05/2013

James Joyce và Ulysses


Sách Hay giới thiệu với bạn đọc yêu văn học bài báo về James Joyce (1882-1941) - nhà văn nổi tiếng người Ailen - đăng trên tạp chí Time qua bản dịch của Nguyễn Thế Vinh - dịch giả của cuốn Chân dung một chàng trai trẻ (NXB Thế giới, 2005).

Chân dung một chàng trai trẻ

Có một lần James Joyce nói với một người bạn, “Một trong những điều tôi không thể làm quen với tuổi trẻ của tôi là sự khác biệt mà tôi tìm thấy giữa cuộc sống và văn học”. Tất cả những độc giả trẻ nghiêm túc thực sự đều nhận ra sự khác biệt. Joyce dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này và cống hiến vào cuộc cách mạng cho các tác phẩm hư cấu của thế kỷ 20.

Cuộc sống mà ông đã đưa vào các sáng tác văn học của mình phần lớn là cuộc đời của chính Joyce. Sinh ra ở Dublin năm 1882, James Augustine Aloysius là con cả của John và Mary Jane Joyce, trong một gia đình có 10 anh chị em. Cha ông là một người nóng tính nhưng dí dỏm, nghiện rượu nặng và không biết toan tính, lo xa.

Mẹ ông, một phụ nữ sùng đạo Thiên Chúa, bất lực nhìn tài chính của chồng mình và gia đình ngày càng rơi vào tình trạng túng quẫn và chỉ hy vọng rằng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc hơn trong tương lai. James Joyce được hưởng toàn bộ nền giáo dục của thế giới Giáo hội và cái môi trường ấy đã đào tạo cậu hơn cả những gì họ định dạy cậu.

Trước khi chàng trai trẻ Joyce tốt nghiệp từ trường Đại học University College, Dublin năm 1902, cậu đã quyết định rằng mình đã học đủ kiến thức để từ bỏ tôn giáo, và toàn bộ bổn phận, trách nhiệm của mình đối với gia đình, tổ quốc và cả những người Anh đang thống trị đất nước mình. Văn học sẽ là nghề nghiệp và nỗ lực của cậu để lưu danh muôn đời sau này.

Cuối năm 1904, Joyce đã quyết định rời bỏ Ailen để bắt đầu một cuộc sống tha hương khắp châu Âu với cô gái trẻ có tên là Nora Barnacle - một nữ phục vụ khách sạn mà Joyce đã gặp trước đó. “Tôi chán ngấy Dublin, chán đến tận cổ! Nó là thành phố của thất bại, hiềm thù và bất hạnh, tôi muốn biến khỏi đây” (Khi nghe tin con trai mình đã bỏ đi cùng với một cô gái có tên là Barnacle, John Joyce hóm hỉnh chơi chữ với cái tên “Barnacle”1 và bình luận, “cô ta sẽ không bao giờ rời bỏ Joyce” ).

Trong khi cùng vợ và hai đứa con - một trai, một gái di chuyển khắp các thành phố ở châu Âu từ Pola, Trieste, Zurich, Rome, Paris... Joyce tìm những công việc văn phòng hay dạy tiếng Anh như một kế sinh nhai nuôi sống cả gia đình và sự nghiệp viết văn của ông.

Tác phẩm đầu tiên của ông được xuất bản là tập truyện ngắn Người Dublin (Dubliners), gồm có 15 truyện ngắn với những cốt chuyện truyền thống và một phong cách mà ông gọi là “epiphanies” (thoát nhiên hiển lộ), tập trung vào những khoảnh khắc khi sự thật, bản chất của một con người hay sự kiện đột nhiên phơi mở.

Tiếp sau đó Chân dung một chàng trai trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man) được xuất bản - một cuốn tiểu thuyết bán tự truyện đầu tay của Joyce thể hiện một dấu ấn về phong cách, về độ phức tạp của ngôn ngữ thông qua chàng trai trẻ Stephen Dedalus - cái tên Joyce chọn để đại diện cho chính mình, từ khi cậu ta còn rất nhỏ đến khi quyết định rời bỏ Dublin để theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật của mình.

Chân dung một chàng trai trẻ không bán được nhiều như mong đợi nên Joyce vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn với những khó khăn tài chính. Tuy nhiên, những sáng tác của ông đã gây được sự chú ý của một số nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn thời điểm đó, trong đó nổi tiếng nhất là nhà thơ người Mỹ, Ezra Pound2 - người đã tin rằng thế kỷ tiếp theo sẽ đòi hỏi một dạng nghệ thuật khác: thi ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, âm nhạc… tất cả mọi thứ. Và những người ủng hộ đó đã quy tập lại để ủng hộ những thử nghiệm mới trong văn phong của Joyce và tất nhiên ông đã không làm họ thất vọng.

Danh tiếng của Ulysses

Joyce bắt đầu viết Ulysses năm 1914: một số phần của cuốn tiểu thuyết này lần lượt xuất hiện trên tạp chí Egoist của Anh quốc và Little Review của Mỹ cho đến khi Bưu điện tịch thu 3 số của tạp chí đã xuất bản với lý do “khiêu dâm, tục tĩu và đồi trụy”, và đưa các biên tập viên của Little Review ra tòa.

Thế nhưng chính vụ kiện tụng này cũng đã ngẫu nhiên làm cho giới văn sĩ và độc giả càng tò mò về cuốn sách sắp tới của Joyce. Thậm chí ngay cả trước khi Ulysses được xuất bản dưới đạng sách thì giới phê bình đã so sánh những phát hiện mới của Joyce với những khám phá của Einstein và Freud.

Với quá nhiều các phương pháp miêu tả truyền thống bị từ bỏ, cái gì còn sót lại? Có lẽ miêu tả rõ ràng và chính xác nhất về kỹ thuật mà Joyce đã sử dụng trong Ulysses là của nhà phê bình Edmund Wilson3: “Joyce đã cố gắng trong Ulysses để diễn tả càng thấu đáo tường tận, càng chính xác, càng trực diện càng tốt qua ngôn từ; và những gì chúng ta tham dự vào cuộc sống này giống như - hay chính xác hơn là cái gì đó có lẽ như từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác ta sống”.

Vì thế mà, có thể lần đầu tiên đọc Ulysses là một thử thách lớn và đòi hỏi một sự kiên trì và dũng cảm chịu đựng ngoan cường. Stephen Dedalus lại xuất hiện, vẫn lẩn quẩn ở Dublin và mơ đến việc trốn thoát khỏi thành phố này. Sau đó, chúng ta sẽ gặp Leopold Bloom hay chính xác hơn là gặp những suy nghĩ của anh ta khi Bloom chuẩn bị bữa ăn sáng cho vợ mình, Molly. (Chúng ta sẽ trải nghiệm qua dòng độc thoại mãnh liệt của cô ta dài tới 25.000 từ liên tiếp không có một dấu chấm câu. Trong màn độc thoại đó, cô cố gắng suy ngẫm về những điểm thiếu sót trong tính cách của chồng mình, về một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, về những người tình của mình, điểm yếu của đàn ông và sự mỏng manh của phụ nữ cho đến khi cô ta lăn ra ngủ, và cuốn sách khép lại).

Ulysses là miêu tả trong một ngày trọn vẹn ở Dublin - ngày 16 tháng Sáu năm 1904, là món quà riêng của Joyce dành cho Nora vì đây chính là ngày đầu tiên hai người hẹn hò đi chơi cùng nhau. Cuốn sách không những dõi theo những khoảnh khắc của Stephen và Bloom mà còn là hàng trăm người dân Dublin đi lại trên đường phố; gặp nhau và nói chuyện, sau đó tiếp tục nói chuyện nhiều hơn trong các quán ăn và nhà hàng. Tất cả mọi hoạt động có vẻ như ngẫu nhiên - chỉ là một ghi chép những tình huống ngẫu nhiên trong một thành phố.

Nhưng không có gì trong Ulysses thực sự ngẫu nhiên. Ẩn dưới mặt ngoài của chủ nghĩa hiện thực của cuốn tiểu thuyết, sự sao chép lại chân thật chất phác của nó về dòng chảy cuộc sống… là một kế hoạch rất phức tạp đã được lập trước đó. Những người bạn của Joyce tò mò đòi Joyce chia sẻ những bí mật trong đó để làm cho độc giả dễ hiểu hơn. Joyce đã tuyên bố: “Tôi đã đưa vào trong đó rất nhiều điều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư luôn luôn bận rộn trong hàng thế kỷ tranh cãi điều tôi muốn nói, và đó là con đường duy nhất để đảm bảo chắc chắn danh tiếng của  một con người”.

Sau đó Joyce cũng mủi lòng hơn và vì vậy mà thế giới đã học được rằng Ulysses, cùng với rất nhiều thứ khác nữa, là một bản kể hiện đại, mới của thiên sử ca Odyssey của Homer: Bloom giống như một anh hùng lang thang; Stephen giống như Telemachus4 và Molly giống như Penelope5.

T.S. Eliot6 , người nhận ra nền móng của cuốn tiểu thuyết viết rằng việc Joyce sử dụng thần thoại cổ điển như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm hiện đại là “một điều quan trọng của một phát minh khoa học”.

Ulysses làm cho Joyce nổi tiếng thế giới nhưng không phải lúc nào cũng theo cách nhà văn vẫn thích: khi một người hâm  mộ tiến đến và hỏi ông, “Tôi có thể hôn lên bàn tay đã viết Ulysses được không?” Joyce trả lời, “Không, nó đã làm rất nhiều việc khác nữa mà”. Nhưng quan trọng hơn, Ulysses đã trở thành một cuốn sách quan trọng cho văn học viết bằng Anh ngữ thế kỷ 20. Nó đã mở rộng miền của đối tượng cho phép trong nghệ thuật viết văn, không chỉ dõi theo Bloom đến những ẩn ức, tưởng tượng tình ái mà còn cả hoạt động bí mật bên ngoài nữa.

Giọng miêu tả đa chiều và các trò chơi chữ phong phú đã làm cho Ulysses trở thành một từ điển đồng nghĩa về phong cách cho các nhà văn mong muốn khi miêu tả cuộc sống đương đại. Những kỹ thuật của Joyce thực hiện trong Ulysses có thể được tìm thấy trong các sáng tác của William Faulkner7, Albert Camus8, Samuel Beckett9, Saul Bellow10, Gabriel Garcia Marquez11 và Toni Morrison12 và tất cả họ, không giống Joyce, đều đạt giải Nobel văn học.

Nhưng cũng chỉ có một người dám cố gắng để vượt qua bộ sách bách khoa Ulysses mà người đó không phải ai khác mà chính là Joyce. Ông đã dành đến 17 năm trời để viết Finnegans thức giấc13 (Finnegans Wake), một cuốn sách có ý định khắc họa cuộc sống đang đêm của Dublin giống như Ulysses miêu tả toàn bộ hoạt động ban ngày của thành phố.

Với mục đích đó, Joyce đã quyết định sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ mới mà có thể diễn tả bằng điệu bộ sự trải nghiệm của giấc mơ. Hơn 600 trang sách tưởng chừng như rất ngớ ngẩn và không thể hiểu được với hơn chục ngôn ngữ khác nhau khiến cho nhiều người ủng hộ ông lo ngại cho sự chào đón của công chúng.

Để trả lời phàn nàn của Pound về sự khó hiểu của cuốn sách này, Joyce viết: “Hành động trong tác phẩm mới của tôi diễn ra vào ban đêm. Hiển nhiên là mọi thứ đều không quá sáng vào ban đêm, có phải vậy không nào?” Và ngày nay, chỉ có những học giả say mê nghiên cứu Joyce mới đọc Finnegans thức giấc. Chắc phải một thế kỷ nữa bạn đọc mới có thể hiểu nổi nó và theo kịp được Joyce!  

Nguyễn Thế Vinh (Theo Tạp chí Time)
Nguồn: Tuổi trẻ

_______________________

1. “Barnacle” trong tiếng Anh nghĩa là “người bám dai như đỉa”
2
. Nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà phê bình người Mỹ - một trong những nhân vật quan trọng
trong trào lưu hiện đại trong nghệ thuật.
3
. (1856-1939) Nhà văn người Mỹ, nổi tếng trong lĩnh vực phê bình văn học.
4.
Một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp - con trai của Odysseus và Penelope
5. Tên một nhân vật chính trong Odyssey.
6
. Nhà thơ, nhà viết kịch và phê bình văn học người Mỹ. Năm 1948 ông đã đạt giải Nobel văn
học.
7. (1897-1962) Tiểu thuyết gia người Mỹ.
8
. Tác giả người Pháp, đạt giảI Nobel văn học năm 1957.
9
. Nhà viết kịch, nhà thơ, tiểu thuyết gia người Ailen, đạt giảI Nobel văn học năm 1969
10
. (1915-2005) Nhà văn người Mỹ đạt giảI Nobel năm 1976
11
. (1928- ): Tiểu thuyết gia, nhà báo, nhà hoạt động chính trị người Colômbia và ông đạt giải Nobel văn học năm 1982 với tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”
12
. (1931- ): Tác giả ngườI Mỹ gốc Phi, đạt giải Nobel văn học năm 1993
13
. Tạm dịch (Một số dịch giả khác dịch là “Sự thức tỉnh của người Phê-nê-gân)”