Ngày đăng : 28/04/2014

Chân dung người nghệ sĩ trẻ


Đó là tựa đề trong tập truyên dài của James Joyce*: “Chân Dung Người Nghệ Sĩ Trẻ / A Portrait of the Artist as a Young Man”(1916) là tiếng nói tha thiết của con người yêu quê hương, một cái gì xót xa không thể tách khỏi tâm hồn người thanh niên trẻ, là tiếng nói ray rứt cho thân phận đất nước, một lời trầm thống qua nhân vật Dedalus từ trang đầu đến trang cuối, một lời nhắc nhở và là lời giải bày tâm sự, một tiếng nói của bi thương. Ở đây Joyce ‘thốt’ lên như lời đồng vọng của kẻ cô thế, tiếng thốt nầy có khác gì tiếng thốt Zarathustra của Nietzsche hay nỗi đau bi tráng, bức xúc, chán chường Roquentin của Sartre, Stephen Dedalus tìm thấy ở nơi mình một cảm thông gần gũi với quần chúng, đó là cảm thức tương quan mà Joyce học hỏi được ở dân tộc mình, qua bao kinh nghiệm đấu tranh và một quy trình dựng nước và giữ nước, từ cộng đồng cho đến cá nhân, một hoài bão trong tim James Joyce, dù cho có ngang trái nhưng đó là thành quả của con người sinh ra và lớn lên ở quê nhà nhưng lưu đày ở tâm hồn. Cái tham vọng của Joyce là ‘giữ thơm quê mẹ’ - although it is by a process of inversion that he achieves his ambition to be self-born. Một tư duy phản kháng nội tại.

Dedalus được nhìn từ một đứa trẻ, một cậu con trai và một chàng thanh niên nhiệt huyết là cả một tổng hợp hấp dẫn, lôi cuốn qua từng giai đọan; cuộc đời và hành động của Joyce vang vọng như tiếng còi báo động: cho những bậc sinh thành, chính trị gia, tôn giáo, các thế hệ khác nhau, lịch sử và văn chương, để rồi người ta tìm thấy tiếng nói ấy, tiếng nói từ tâm não (ventriloquial version) với một biểu lộ khác; đó là tiếng nói tự đáy lòng cho một ‘hồn khí/soul’ trong con người James Joyce.

Một điều gì thông thường được nói ra đây, một lời lẽ riêng tư của Joyce, ở đây chúng ta chứng nhân cho một phản ứng tình trạng bẩn thỉu, đê hèn đã làm tê liệt, hủ hóa nguồn sống của đất nước và con người Ái Nhĩ Lan. Sự thật mà Joyce đối diện với đời là những gì quan trọng cho một nhà văn đương thời, một lối phô diễn mạnh không giống những gì của một thế giới hiện đại ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một kỷ nguyên văn minh, tiến bộ. Để vượt qua những gì xẩy đến, cần có thẩm quyền để làm mới và xác định một cách minh bạch, xã hội và hệ thống chính trị phải được phân minh, một phương trình mới được thay thế và khai mở. Từ Nietzsche cho tới D.H. Lawrence đã phát sinh ra những ám ảnh cho người viết ở Âu châu, một phản kháng mãnh liệt hơn bao giờ vào thời đó, một yêu cầu gìn giữ văn hóa vốn đã suy đồi. Trong khi đó tiêu biểu đúng đắn được nhìn thấy ở những tác phẩm của Joyce. W.B. Yeats (1865-1939) nói: ‘Vai trò đó có nhiều kịch tính và đầy đủ một nhân tố gắn liền tình quê tha thiết và cả một thời đương đại.’ “That role is more dramatically and successfully filled by his great compatriot and comtemporary”. Joyce không thể tha thứ những gì trong cái lời phân tích hay bình phẩm hủ hóa qua những tác phẩm của ông, nhưng Joyce hiểu được bệnh lý của xã hội, ấy là điều không có một ảnh hưởng gì đến nền văn hóa lâu dài của đất nước Ái Nhĩ Lan. Những dữ kiện đó trở nên keo sơn, thay vì đến từ những hệ thống lệch lạc làm thuyên giảm niềm tin và phương thức qua cách cư xử; thái độ nầy đưa tới nô lệ hóa đất nước và con người Ái Nhĩ Lan. Triệu chứng đó tạo nên sợ hãi cho tự do, sợ cho bản thân mình, sợ những đối kháng phức tạp của kinh nghiệm, những điều đó có thể là thừa cho một quy ước, tục lệ ấy là sự thể cho một cơ cấu tổ chức trong một khuôn khổ mẫu mực, buộc phải thi hành mà làm thương tổn đến tinh thần đất nước Joyce. Nỗi sợ hãi nầy đem lại nhiều lời tuyên bố, phát ngôn bởi những ước lệ, qui cách như có hệ thống mà quá trình người Ái Nhĩ Lan đã sống trong vay mượn từ hai nguồn tư tưởng Anh Quốc và La Mã, dù cố gắng phục hồi.

Trong cái nhìn của Joyce có cái gì không thực, bởi hai sự cớ nêu ra là nguyên nhân tìm thấy ở lời phê chuẩn trong một trạng thái hoả mù và ngờ vực của một thời quá khứ hơn là trong hiện tại; bởi vì đó là bổn cũ sao lại mà thôi, chẳng có gì là mới mẻ cả.

Động lực đã khơi mào cho Joyce từ năm 1904 qua một tiểu luận ngắn ‘Chân Dung Người Nghệ Sĩ / A Portrait of the Artist’ trong đó Joyce đã phát họa ‘chân dung’ đời mình: sự phán quyết đời mình là một sáng tỏ, một suy xét đắn đo, bén nhạy, một bản văn chạm trổ đầy đủ cho bản thân mình và một cái nhìn đúng đắn, hợp thời:

 
James Joyce (1882-1941)  

Chàng thanh niên trẻ đã thấy được cái u ám, đần độn trong nhân vật của Emile Zola là một thức tĩnh, một tâm lý khoa học (physical science) cho Joyce, khơi dậy một tư duy giải phóng đế quốc và từ đó ghi lời tâm niệm như sự chối bỏ ở chính mình; người ta tìm thấy cái dịu dàng nhưng sống động trong người của James Joyce, người ta bắt gặp sự phản kháng trong văn chương của Joyce đó là nguồn cơn đưa tới sự phản kháng của dân tộc Ái Nhĩ Lan (Irish rebels). Một niềm tin bảo vệ tổ quốc.

Đọc đến đây ta cũng dự ước được dòng máu anh hùng trong nhân vật Stephen Dedalus, một tiểu thuyết bị bỏ rơi mà một thời lên án gắt gao của đám cầm quyền thủ cựu, cho đó là một sự nhạo báng, mỉa mai, hùa nhau phê phán, đánh giá sai lệch cho một tư tưởng bộc phát, muốn chấn hưng quốc gia để giữ thơm quê mẹ; khi nào cũng thế đều có hai khuôn mặt thật và giả, điều đó có khác chi ngạn ngữ Tây phương đã nói: ‘Bên nầy dãy núi Pyrénee là sự thật, bên kia dãy núi là giả dối’ ám chỉ cho cuộc đời, ám chỉ cho chọn lựa giữa tốt và xấu (good and evil). Nói chung ở đây chất chứa một ‘chân dung’ hào hùng như những người con yêu của tổ quốc (as a Young Man); Joyce tiếp tục lên tiếng để giải độc những sai lầm với những gì mà Joyce trực diện; mặc khác đáng ra phải có một chút ‘lương tri’ trái lại phải làm cái điều ‘ngu xuẩn’. Đây cũng là lời bày tỏ quá sớm, một trong những lời bày tỏ có tính mỉa mai, châm biếm để nói lên chủ đề cho một ‘chân dung’, một cái gì rõ nét giữa một con người nghệ sĩ đa tình và một cái gì lú lẫn ở nơi ông.

‘Joyce goes on to speak of the false antinomies with which, in such a world, he was faced; on the one hand ‘sensitiveness’ on the other hand ‘dullness’. This too is an early indication of one of the ironically presented motif in ‘portrait’, the distinction between the sensitive artist and his dull.

James Joyce nhìn đời mình là một cuộc đời hào hùng (a heroic life) với nhân vật anh hùng (Stephen Hero). Ông cho đây là hành động phản kháng, một cái gì ‘Nego’ của riêng ông, mà ‘nego’ là gì? –là một chối bỏ; không nô lệ, không tôi đòi: ‘Tôi sẽ từ chối phục vụ’ mà được coi là anh hùng như một ‘Chân Dung’. (non serviam: ‘I will not serve’, as it became in ‘Portrait’(p.102). Joyce đối diện với hai bề mặt và một bày tỏ khâm phục. Ở cuối, những cụm-từ ta bắt chụp một khả năng đáng kể đó là sự phân tích rõ nét về cái gọi là ‘Chân Dung’của anh hùng Dedalus. Ở phần chót chúng ta thấy một cuộc chiến nội tại ở Stephen Dedalus là phụ dẫn cho một đối đầu xung đột; ‘Chân Dung’ một phụ dẫn cho một độ dốc nghiêng, bị lệch lạc cần phải sửa chửa, xây dựng lại, còn hơn bị tàn phá, do từ những kẻ đứng bên trong mà khi nào cũng đứng ngoài như người ngoại cuộc, cái đó xuất phát từ nguyên nhân tham vọng mà ra. Nhưng chối bỏ, phủ nhận là không phải vô-sinh, khô cằn (barren). Cái đó cũng là cái vô tưởng trong phút chốc. Trong phần cuối của tiểu thuyết, Joyce kết một hành văn khá độc đáo như một thông điệp; James Joyce giàn trải một số ngữ âm, từ ngữ diễn tả cái sai lệch thoái hóa và những thứ vi nhiễm có tác hại cho đời sống xã hội. Nhờ vào đó mà tác phẩm của Joyce thành công và sớm nổi tiếng xuyên thẳng đến quần chúng; một kích thước, khuôn mẫu siêu tưởng nằm trong đó –như trong truyện ngắn ‘Chết/Dead’ với lời độc thoại của Molly trong Ulysses và sự tĩnh lặng của Anna Livia Plurabelle trong ‘Thức tỉnh của Finnegans/Finnegans Wake’. Chứng cớ như thế cho ta thấy được cái ‘chân dung’ của James Joyce, phân tích được một xã hội điên rồ mà đó là mầm mống liên hợp sẽ dẫn đến hành động.

Giống như Nietzsche và Freud, Joyce lột trần bộ mặt đạo đức giả (hoặc đương đầu) với bọn vương quyền trưởng giả. Joyce thu nạp vào những toan tính khó khăn nhưng được cái Joyce sớm có tiếng tăm hơn những người khác, ông thiết lập một tư duy có định nghĩa trong một nơi chốn đặc biệt bởi vì Joyce khai thác đúng chỗ, ‘quê mẹ’ nơi nổi tiếng xưa nay dành cho những người hiểu biết và có tài hùng biện, tạo tiếng vang cho một ngôn ngữ phát biểu, hai dữ kiện nêu trên như khí cụ và là vấn đề mà Joyce đã phân tích. Lời phát biểu của James Joyce tợ như chiếc cầu trên con kinh, nối liền sự bình thường giữa tất cả những gì đã xẩy ra trên đất nước Ái Nhĩ Lan. Đó là bước đi của Dedalus trên những dặm trường, những bước đi là những bước dẫm nát chế độ mà hầu như biểu lộ một cách sống thực trong tiểu thuyết của Joyce, một hiệu năng phản ảnh được tính cách hùng biện để được phép đối thoại, một phản biện, bất bạo động và đứng bên nhau, sự thể nầy có tính điạ lý học mà hàm ý đưa vào lịch sử của dân tộc anh hùng.


Bìa cuốn sách: A Portrait of the Artist as a Young Man

‘Chân Dung’ từ đầu cho đến cuối với đầy đủ dẫn chứng. Khoảng cách đó được xem như một hấp lực của quần chúng, những sự cớ nêu trên là một dẫn giải đầy đủ qua từng trắc nghiệm trên trang sách. Ở chương III trở thành lời thuyết giáo cho những gì lửa-điạ-ngục (hell-fire), lối diễn tả nầy ý chừng như đất nước lầm than bởi ách thống trị; e đây cho ta một ấn tượng về lửa của Mục Liên Thanh Đề, tuy không dính dấp vào đâu nhưng đã là lửa điạ ngục là lửa tội lỗi. James Joyce phụ dẫn ở đây như dẫn chứng trường hợp của Arnall, người đã tự biện minh để giải cứu đất nước vào thế kỷ 17 và chấm dứt ở chương V qua những lời dẫn chứng (quotations) trong nhật ký của nhân vật Stephen Dedalus. Đó là điều quan trọng trong cái việc dẫn chứng cho một tiểu thuyết bằng những lời lẽ trích dẫn qua ngôn từ để nói lên ‘chân dung người nghệ sĩ trẻ’, người nghệ sĩ đó được nhìn như vai trò chủ thể. Lời dẫn chứng ở đây như mở đầu cho một triết thuyết viết ra (thay lời tựa)- the first quotation is the epigraph to the novel. Trong lối viết của James Joyce được dẫn chứng qua từng nhân vật đọc lên nghe âm điệu của thơ, qua từng giai điệu mỗi nhân vật từ thuở ấu thời cho đến tuổi trưởng thành.

Giọng điệu diễn âm trong văn phong, Joyce tạo ra sự uốn nắn, dịu dàng và tế nhị qua cái kiểu tự do gián tiếp ‘indirect free style’ hoặc một tâm thức trôi chảy (stream-of-consciousness) một diễm âm trong bóng mờ đứng sau hình ảnh nhưng đã làm sống thực vai trò hoạt họa, những vấn đề nêu ra từ đây không còn bế tắc hay mù mờ của cái bóng không hồn, James Joyce diễn âm như một báo cáo trước quần chúng. Dù cho một phần nào đó trong tiểu thuyết cũng được xem như là thông điệp, một lối sắp xếp chữ nghĩa khéo léo, một dụng ý của Joyce để nói lên lời dẫn chứng và cũng là thông điệp truyền thông đến mọi giới, một lời nói cảnh tỉnh đến những quốc gia có một tinh thần như thế.

Sự tương quan nầy được phân tích giữa cái gọi là ‘không cá tính’ và cái cảm xúc vô vàn thiết tha và tế nhị đó là những gì viết về nhân vật Stephen như một đối kháng.

Nỗi thống khổ của lửa-điạ-ngục được miêu tả ở chương III là đưa lên hai thể loại – tâm lý và tinh thần. Hai thứ nêu trên là cái sự vô biên và bao quát, một điều khó tin trong những gì phát triển rộng lớn và những thay đổi không ngừng và; tất cả những gì tồi tệ nhất sẽ không bao giờ là mãi mãi được nối tiếp mà chỉ có sự thật phát ra từ một tâm-như thật.

Một sự mỉa mai trong chân dung/Irony in Portrait. Joyce cho đây là điều cần phải suy xét; bởi người ta cho rằng tiểu thuyết viết về ‘Chân Dung Người Nghệ Sĩ Trẻ’ với nhân vật mà tác giả đưa ra là có ý mỉa mai, nhạo báng xã hội đương thời, trong lúc cả nước đang rơi vào cảnh nhiễu nhương. Để cuối cùng thấy được chân tướng của Stephen trong vai trò mà Joyce mượn để chia sẻ, song le; dưới những con mắt phê bình chủ quan vẫn cho rằng trong tác phẩm chứa đựng sự tự mãn hoặc một cái gì bỉ ổi trong đó; quả thật đây là một nhầm lẫn lớn lao ‘great mistake’ mà Joyce đã để lại trong tác phẩm của mình. Từ đó James Joyce thật sự xa lánh mọi người, ông bỏ đi với đôi tay không khí giới, với một mẫu bánh mì kẹp vào một lý thuyết thẩm mỹ khô khan; về sau vô phương cứu chữa ông trở thành lao công ở những vùng đồi núi xa xôi, thỉnh thoảng ‘sản xuất’ một vài bài thơ nhỏ như chuột rúc, tự dâng tặng cho chính mình một cách trân quý tợ như một thằng hề. Lòng hoài vọng ngu xuẩn vẫn không buông tha trong người của James Joyce. Ông chỉ để tâm vào sự kiêu hãnh, hầu như đó không phải là điều tự nhiên như mọi người đã nghĩ và làm và ông không nương lòng trong việc thực hiện một tác phẩm, ấy là điều không thể chấp nhận cho một lương tri người viết, mà xây dựng ngoài nền tảng luân lý, đạo đức.

Điều hẳn nhiên chúng ta chỉ cần nhìn vào cái vóc dáng của Stephen để lên án, hãy cắt bỏ những gì không cần thiết mà tiếp tục đi sâu vào tiểu thuyết ‘Ulysses’ để thừa nhận rằng Joyce đã cung cấp cho chúng ta một phần của tình yêu: yêu người và yêu đời vì quá thiết tha mà dựng nên những cảnh không hợp tình; cũng có thể những lời phê phán về tác phẩm ‘Chân Dung’ của Joyce như lời thách đố, lời phê phán trở nên võ đoán vì những lý do khác. James Joyce là người ngoan đạo nhưng không thể làm hư hại niềm tin của kẻ ngoan đạo. Một phần đay nghiến trong chân dung là đay nghiến, mỉa mai chính ông như tính ngông của người trai trẻ. Joyce is here providing us with a part-loving, part-ironic portrait of himself as a (very) young man. Đây là cái nhìn mô phỏng hiện hữu của ‘vai trò’ Stephen như một sẳn lòng, còn bản thân Stephen mô phỏng hiện hữu của một vai trò đối xử tốt cho một truyền thống dân tộc Ái Nhĩ Lan. Dĩ nhiên đây chỉ là giả thuyết đưa ra nhưng sự việc đòi hỏi khả năng. Vậy vai trò của Stephen là gì? –là một khởi hành lên đường, là một tự nhận. Và chính ngay Joyce, ông dựng lên vai trò cho chính ông và so sánh như một đạo luật với lòng mong muốn. Phận sự của nam, nữ là một đóng góp xây dựng xã hội, kinh tế và thích nghi hoàn cảnh trong cuộc sống; đó là hoài bão của James Joyce.

‘Thời gian thay đổi và chúng ta thay đổi bởi những gì đã thay đổi’ (Times change and we are changed by them (p.100) Chính sáng tạo của Joyce là một sáng tạo ngôn ngữ đồng thời là một sáng tạo tư tưởng (do từ bộc phát tư duy) chính sự cớ đó làm cho câu chuyện dính dáng đến sự mỉa mai, nhạo báng. Có thể chúng ta cảm thấy rằng đây chỉ là một hư cấu của Stephen; hẳn nhiên là những gì mà Joyce tạo nên là phù hợp hoàn cảnh và thời gian mà joyce đã sinh ra và lớn lên ở quê nhà. Cho nên chúng ta bắt gặp những gì mà ông mơ ước đều không thực hiện được. Nhưng ngoài những lời châm biếm, mỉa mai còn có một nghĩa khác là xây dựng cái tốt, loại cái xấu. Công việc có tính đơn thuần, giản đơn nhưng có thể phát sinh một sự lý hỗn tạp trong xã hội Ái Nhĩ Lan.

Do từ tiêu đề ‘Chân Dung’ mà gây một tác động mãnh liệt ở chỗ ‘mỉa mai’. Tạo dựng một sự khác biệt giữa cái gì liên can cá tính của Joyce và những gì liên can đến tác phẩm của ông trước đây. Hai dữ kiện nầy có một tương quan gần gũi của họa và văn vì đó không có gì là khó khăn cho một ý niệm về nghệ thuật chân dung, nhưng ở đây chân dung được ‘vẽ’ lên cái mặt thực chớ không vẽ thực một hình ảnh sống thực như những nhà chuyên nghiệp khác. Thiết tưởng chân dung là cái gì đích thực, một cái mỉa mai cao quý của Joyce, không những còn là sự chiếu sáng vào con người tuổi trẻ, nhưng ở những câu mở đầu truyện hay bằng bất cứ lối vào truyện đều đặc dưới câu truyện như một giả thuyết về sự khai phóng cho văn chương (và trong hội họa) bằng một cái khung thực tế.

James Joyce đã làm nên một tác phẩm dù đứng dưới một lăng kính nào, nhưng tác phẩm của Joyce là một tiềm năng xoi mòn cái gì là thống trị và bị trị. Tập truyện ‘Chân Dung Người Nghệ Sĩ Trẻ’ vẫn còn là định mức cho hôm nay, dẫu sao lý thuyết của câu chuyện vẫn không ngoài ý nghĩa của một người thiết tha yêu nước, yêu người, là hoài bão, là ước mơ không ngoài mục đích nào hơn. Đó là tinh thần được coi như anh hùng trẻ tuổi qua chân dung của một người nghệ sĩ. Trong vai trò cũng như trong cuộc đời của James Joyce.

(ca.ab. vàothu. 9/2012)

Võ Công Liêm
Nguồn: Art2all

______________________________________________

SÁCH ĐỌC: ‘A Portrait of the Artist as a Yong Man’ by James Joyce. Penguin Books Canada. Toronto 2003.

* James Joyce: Nhà văn, nhà thơ, Truyện ngắn, truyên dài.
Sanh: Feb. 2 1882 ở Dublin. Ireland. Chết: Jan 13 1941 ở Zurich. Đức quốc.
- Tập thơ đầu tay 1907: ‘Chamber Music/Phòng Nhạc’.
- Chuyện ngắn 1914: ‘Dubliners/Dân Dublin’.
- Tiểu thuyết đáng kể 1916: ‘A Portrait of the Artist as a Young Man/ Chân Dung Người Nghệ Sĩ như Người Đàn Ông Trẻ’
- Kịch: ‘Exiles/Lưu Đày’ 1918.
- Tập truyện Ulysses 1914. Nổi tiếng thế giới. Phát hành ở Pháp 1922.
- Tập truyện tâm sinh lý 1914: ‘Finnegans Wake/Trở Giấc’. Phát hành 1939.